Tại Việt Nam, các bậc lảnh đạo đất nước mỗi
lần hiệu triệu, lời kêu gọi khá trịnh trọng "Kính thưa Quốc Dân", nhưng
thật tế không thân t́nh bằng, "Hởi Quốc Dân Đồng Bào". Nếu như lời
gọi nầy được đơn giản hơn nữa "Thưa Đồng
Bào" tuy ngắn gọn, nhưng dân Việt tiếp nhận âm vang thân thương
nầy, bằng tất cả tấm ḷng căm hoài chung cội chung nguồn.
Là công dân Việt, mỗi khi nghe hay mỗi lần đọc từ ngữ "Đồng
Bào", tâm trạng của con người ấy, phản phất lân lân kỳ lạ. H́nh
như cả thế giới (kể cả Trung Quốc) chưa có nước nào dùng từ
ngữ "Đồng Bào" đúng với nghỉa đen của nó để gọi
quốc dân nước họ ! Từ gọi "Đồng Bào", đặc
trưng chỉ có Việt Nam.
Vậy ư nghỉa "Đồng Bào" từ đâu mà có ? Và do đâu mà tâm tư dân Việt
rung động ? Tất cả những thắc mắc nầy đoạn Huyền
Sử gốc tích dân "Lạc Việt" dẩn giăi như sau :
- Truyện họ Hồng Bàng
Đế Minh, cháu ba đời họ Viêm Đế, Thần
Nông sinh ra Đế Nghi, nhân lúc đi tuần ở phương Nam đến núi Ngủ
Lĩnh lấy con gái bà Vụ Tiên mang về sinh ra Lộc Tục.
Lộc Tục dung mạo đoan chính thông minh phúc hậu, Đế Minh lấy
làm lạ, muốn cho nối ngôi ḿnh. Lộc Tục cố từ xin nhường cho anh. Đế
Minh liền lập Đế Nghi làm kẻ nối ngôi để trị đất Bắc,
lại phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương để
trị đất Nam, lấy hiệu là nước Xích Quỉ. Kinh
Dương Vương có tài đi dưới Thủy phủ, lấy con gái Long Vương
ở Hồ Động Đ́nh, sinh ra Sùng Lăm hiệu là Lạc Long Quân,
cho nối ngôi trị nước. Sau, Kinh Dương Vương không biết đi đâu
mất .
Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng
Quân, Thần, Tôn, Ti. Dạy đạo cha con, vợ chồng. Đôi khi trở về Thủy
phủ mà trăm họ vẫn yên vui, không biết do đâu mà được thế. Hể
dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ! sao không lại
cứu chúng con" th́ Long Quân tới ngay, sự linh hiển cảm ứng của Long Quân đối
với người đời không ai lường nổi .
Đế Nghi ở phương Bắc truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị
Bắc Phương. Nhân thiên hạ vô sự bèn sai quân thần là Xuy Vưu thay ḿnh trông
coi quốc sự, rồi đi tuần xuống nước Xích Quỉ ở phương
Nam. Khi đó Long Quân đă về Thủy phủ, trong nước không có chúa. Đế Lai bèn
để ái nữ là Âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại, rồi
đi chu du thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ
lạ, trân cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc, các thứ đá quí, các cây trầm, đàn,
cùng các sơn hào hải vật ... không thiếu thứ ǵ, c̣n khí hậu bốn mùa không lạnh
không nóng. Đế Lai rất ái mộ, vui mừng mà quên trở về ...
Dân phương Nam khổ v́ bị người phương Bắc quấy nhiễu
không sống yên ổn như xưa, mới cùng kêu gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ! ở
đâu mà để dân phương Bắc sách nhiễu dân phương Nam thế nầy" .
Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ có dung mạo đẹp
đẽ lạ kỳ, trong ḷng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú
lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa
ca hát đánh trống. Cung điện tự nhiên mọc lên, Âu Cơ vui ḷng theo . Long Quân dấu
Âu Cơ ở Long Đài Nham.
Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi t́m. Long
Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm h́nh vạn trạng, yêu tinh, quỷ dử, rồng
rắn, hổ voi ... làm cho bọn đi t́m đều sợ hăi không dám sục sạo. Đế
Lai đành trở về Bắc, truyền ngôi đến đời Du Vơng.
...
Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên mang chư hầu tới đánh phương
Bắc, nhưng không được. Có người mách Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh,
Xuy Vưu sợ hăi chạy ra đất Trác Lộc. Đế Du Vơng cùng Hiên Viên giao binh ở
Phăn Tuyền, đánh ba trận đều bị thua, bị giáng phong ở đất Lạc
Ấp và chết ở đó. Ḍng họ Thần Nông tới đây th́ hết .
...
Âu Cơ lấy Long Quân, đẻ một bọc lớn cho là điềm
bất tường, vứt ra cánh đồng, qua bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm
trứng. Trăm trứng nở ra trăm con trai, mới mang về nhà nuôi. Đàn
con không phải bú mớm, tự nhiên lớn lên trông đẹp lạ kỳ, người nào
cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là điều
phi thường. Long Quân ở lâu dưới Thủy phủ nên vợ con muốn về đất
Bắc, về tới biên giới, Hoàng Đế cho binh ra giữ chặt cửa ải, mẹ
con Âu Cơ không thể về được bèn quay về lại nước Nam mà gọi
Long Quân rằng : " Bố ơi ! ở nơi nào mà để mẹ con chúng con cô độc
ngày đêm buồn khổ thế nầy " .
Long Quân hốt nhiên trở về ngay, gặp nhau ở đất Tương. Âu
Cơ nói: "Thiếp vốn là người phương Bắc, ở với vua sinh hạ được
trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi không cùng thiếp nuôi con thành người vô phu, vô
phụ, chỉ biết thương ḿnh !". Long Quân nói: " Ta là ṇi Rồng
đứng đầu thủy tộc. Nàng là giống Tiên sống ở
trên đất, tuy nhờ khí âm dương mà hợp lại đă sinh ra con. Nhưng thủy
hỏa tương khắc, ḍng giống bất đồng khó mà ở lâu với nhau được,
nay phải chia ly. Ta đem năm mươi con về Thủy phủ chia trị các xứ;
năm mươi con theo nàng ở trên đất chia nước ra mà trị. Lên núi xuống
bể , hữu sự báo cho nhau biết đừng quên". Trăm con vâng theo bèn từ biệt
nhau mà đi .
Âu cơ và năm mươi con về ở đất Phong Châu (Bạch Hạc)
suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng
Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Đông giáp Nam
Hải, Tây giáp Ba Thục, Bắc giáp Động Đ́nh Hồ, và Nam đến Hồ Tôn (nay
là Chiêm Thành).
Chia nước ra làm 15 bộ (c̣n gọi
là Quận) như sau : Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc
Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định,
Văn Lang, và Tượng Quận .
Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm Tướng Văn gọi
là Lạc Hầu, và Tướng Vơ gọi là Lạc Tướng.
Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ
Nương.
Trăm quan gọi là Hồ Chính, Thần Bộc. Nữ , lệ gọi là Xảo
Xứng (hay nô tỳ). Bề tôi gọi là hổn.
Đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo,
vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương không hề thay đổi
... "Trăm người con trai đó chính là tổ tiên Bách Việt
vậy".
_________________________
Truy cập :
Truyện Họ Hồng Bàng vừa kể là truyền thuyết, nếu được
sử chọn và ghi chép th́ gọi là Huyền Sử. Trong truyền thuyết và kể cả
huyền sử, luôn luôn có thần thoại, nhân thoại, mà đồng thời cũng
là điển tích.
Vào thế kỷ thứ XIV (14), Ông Trần Thế Pháp góp nhặt trong kho tàng văn
ngôn truyền miệng của người xưa tuyển chọn 22 truyện chép thành bộ
"Lỉnh Nam Chích Quái" mà truyện Họ Hồng Bàng được xếp vào đầu
truyện.
Để nhận thức mức độ "chân thật" của truyền thuyết
về Họ Hồng Bàng tất phải tham khảo thêm Sử Việt .
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, viết :
- Kinh Dương Vương , tên húy là Lộc Tục,
được Đế Minh cháu ba đời của Thần Nông, phong cho cai quản phương
Nam, gọi tên nước là Xích Quỉ. Kinh Dương Vương lấy con gái Động
Đ́nh Quân là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân.
- Lạc Long Quân , tên húy là Sùng Lăm, lấy con gái vua Đế
Lai (vua phương Bắc) sinh ra bào thai 100 con trai là tổ của Bách Việt, phong con trưỡng
làm Hùng Vương nối ngôi vua .
- Hùng Vương , con của Lạc Long Quân không rơ tên húy,
đóng đô ở Phong Châu (nay là Bạch Hạc), lấy quốc hiệu là Văn Lang. Địa
giới : Đông, Nam Hải; Tây, Ba Thục; Bắc, Động Đ́nh Hồ; Nam, Hồ Tôn
. Chia nước thành 15 bộ. Đời Hùng Vương thứ 6, Phù Đổng Thiên Vưong
phá giặc Ân. Đời Thành Vương nhà Chu (1063-1026 tCN) nước Việt sang thăm
viếng, xưng là Việt Thường, tặng chim trỉ (chuyện cổ tích Bạch Trỉ
Sào Nam chi, có nhắc đến) . Đời Hùng Vương thứ 18 , Thục Phán xâm chiếm
nước Văn Lang, lập thành nhà Thục, lấy tước hiệu là An Dương
Vương, đổi quốc hiệu lại là Âu Lạc .
- Kỷ Hồng Bàng Thị , khởi thủy từ Kinh Dương
Vương cùng thời với Đế Nghi và Lạc Long Quân, Sùng Lăm cùng thời với Đế
Lai (phương Bắc), truyền đến cuối đời Hùng Vương thứ 18
(258 tCN) th́ hết . Hồng Bàng Thị trị v́ được 2622 năm (2879-258 tCN) .
- Kỷ Nhà Thục , An Dương Vương tên húy là Phán, người xứ
Ba thục, ở ngôi 50 năm, đống đô ở Phong Khê (nay là Thành Cổ Loa), lấy
quốc hiệu là Âu Lạc . Năm 249 tCN(trước Công Nguyên) nhà Tần thôn tính cả 6
nước : Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn, Tề (sau ngày nhà Chu mất), tức vị Tần
Thùy Hoàng Đế vào năm 221 tCN . Cũng vào năm nầy, nhà Tần phát 50 vạn binh, phong
Đồ Thư làm chủ tướng, đánh chiếm Lỉnh Nam nước Việt, nhưng
không được . Đồ Thư tử trận, Nhâm Ngao và Triệu Đà thay, lui quân về
Vũ Ninh (nay Lưỡng Quảng) sai sứ giảng ḥa . Tiếp theo là thiên t́nh sử
Trọng-Thủy Mỵ Châu (xem phụ lục) tạo điều kiện cho Triệu Đà
vào xâm chiếm trọn Lỉnh Nam đất Việt . An Dương Vương trị
v́ được 50 năm, từ 257 đến 208 trước Công Nguyên .
- Kỷ Nhà Triệu , tước hiệu Vũ Đế, tên húy là Triệu Đà,
người nước Hàn (có sử ghi là người nước Lỗ), làm phó tướng
cho Nhâm Ngao, nước Tần. Năm 210 tCN Tần Thùy Hoàng mất nhà Hán thay, Nhâm Ngao chết
bệnh, Triệu Đà thay, v́ đang chiếm giữ Lỉnh Nam nên không tùng phục
nhà Hán, Triệu Đà tức vị xưng vương, đóng đô ở Phiên
Ngung (Quăng Đông ngày nay) đặt quốc hiệu lại là Nam Việt. Nhà Triệu
truyền được 5 đời, trị v́ được 97 năm (207-111
tCN) .
___________________________
Truyện họ Hồng Bàng trong "Lỉnh Nam Trích Quái" được ông Ngô Sỉ Liên chép
vào "Đại Việt Sử Kư toàn thư" là Kỷ Hồng Bàng . Nội dung của 2 sử
liệu nầy dẫn đến 7 đề mục quan hệ trực tiếp đến
cội nguồn tộc Việt, và đồng thời cũng là điển tích cho từ gọi
"Đồng Bào", kể ra như sau : 1. họ Thần Nông ; 2. họ Hồng Bàng ; 3. Âu-Cơ
Lạc Long Quân ; 4. Hoàng-Đế diệt Xuy Vưu ; 5. Tiếng gọi Đồng Bào ; vật
tổ Tiên Rồng ; 7. Hùng-Vương Lạc-Việt .
Để lư giải 7 đề mục vừa kể tất phải tra cứu
thêm Cổ Sử Trung Quốc, v́ dân tộc Bách Việt đă là cư dân
chính thức trải rộng đến 3/4 lănh thổ của Trung Hoa khi xưa . Tất
nhiên đoạn tra cứu sử liệu phải từ nhà Tần (221,tCN) trở về
trước, vào thời "Thượng Cổ Sử", mà lănh địa của
Hoàng Đế Hoa tộc vào thời bấy giờ chỉ vơn vẹn có mỗi 2 tỉnh
Hà Nam và Sơn Tây thuộc vùng trung lưu của sông Hoàng Hà mà thôi .
2. Cổ Sử Trung Quốc
- Theo ông Vương Đồng Linh trong "Trung Quốc dân tộc học" th́ sau 4 lần băng
tuyết, những người sống c̣n trên cao nguyên Thiên Sơn tức Hy Mă Lạp Sơn
tiếp giáp đến Mông Cổ, túa ra đi t́m đất sống. Nhóm đi về hướng
Đông có 2 nhánh : 1 là Thiên Sơn bắc lộ, gọi là Bắc tam hệ, Măn (Manchourie),
Mông (Mongolia) và Hồi (Islam). 2 là Thiên Sơn nam lộ, gọi là Nam tam hệ, Miêu
(polynesien), Hoa (asia), Tạng (indo). Miêu gồm có Âu Việt(Miêu,Thái,Lào), Miêu Việt (Mèo,Mán)
và Lạc Việt (Việt-Nam, Mường), sử cổ gọi chung là Viêm
Việt, sau nầy sử kư Tư Mă Thiên viết là Bách Việt .
- Theo ông Chu Cốc Thành trong quyển "Trung Quốc thông sử", nhóm Miêu Việt theo
ḍng sông Dương Tử vào nước Tàu lập thành 7 tỉnh tại Trường Giang,
tỏa lên mạn Bắc lập thành 6 tỉnh tại Hoàng Hà, tràn xuống phương
Nam lập thành 5 tỉnh tại Việt Giang, vị chi 18 tỉnh . Vào thời bấy giờ
vùng Tân Cương hăy c̣n trù phú chưa bị sa mạc hóa, vẫn c̣n là phúc địa nên
Hoa tộc sinh cơ lập nghiệp tại đấy .Nhóm Tạng
tộc th́ thẳng tiến về phía Nam khai thác vùng Cao Nguyên Tây Tạng và lân cận .
- Theo ông Phan Khoang trong "Trung Quốc Sử Lược", th́ sắc tộc Tam Miêu
thuộc giống người Cữu Lê (c̣n có tên là Lư) cư ngụ ở phương Nam.
Tại phương Đông, dọc miền duyên hải là sắc tộc Việt
(tiền thể là nước Ngô, nước Việt của thời Chiến Quốc). Ở
Tây-Nam th́ có sắc tộc người Bộc, người Quả La
(thuộc Tạng tộc). Tây-Bắc là người Hoa, người Khương
(sau nầy là người Hung Nô, Đột Quyết). Phương Bắc là người
Mông, người Măn .
Tổng hợp và góp nhặt nhiều mảnh vụn từ cổ sử các nhà cổ sử,
đến nay đi đến một kết luận chung là, toàn vùng Viễn Đông và Đông
Á thời xưa, có rất nhiều sắc tộc cư ngự và dần theo tiến tŕnh tự
nhiên những dân tộc nầy đă tiến bộ tuần tự như sau :
- Thị tộc chuyễn sang Bộ Lạc, và thành Bộ Tộc (thời hoang sơ)
- Bộ Lạc Cộng Chủ (thời Tam Hoàng tCN hơn 5000 năm)
- Bộ Lạc Liên Minh (thời Ngũ Đế tCN 2697 năm)
- Vương Quốc Liên Bang (thời Tam Đại tCN 2205 năm)
- Hoàng Triều Nhất Thống (kể từ Tần Hán tCN 221 năm, và trở về
sau)
Khoa Cổ Sử Trung Quốc, có trường phái công nhận khởi thủy từ thời
Tam Hoàng, vào khoảng 5000 năm tCN (theo Tư Mă Quang), gồm có : Hữu Sào Toại Nhân,
Phục Hy Nữ Oa, Thần Nông Thị .
Có trường phái lại thảy bỏ Hữu Sào Toại Nhân thay Hoàng Đế vào thời
Tam Hoàng, thành ra : Phục Hy Nữ Oa, Thần Nông Thị và Hoàng Đế vào khoảng 4480
năm tCN (theo Tư Mă Thiên) .
Trường phái khác lại chỉ công nhận từ thời Hoàng Đế trở
về sau, vào khoảng 2697 năm tCN. Dù vậy đại chúng Trung Quốc nói riêng và toàn
vùng Châu Á nói chung vẫn hiểu cổ sử theo Kinh Dịch, với Phục Hy, Thần Nông
và chuyện cổ về Tam Hoàng, Ngũ Đế, Tam Đại .
...
Thời Tam Hoàng
Sách cổ Tam-phần, Ngũ-điển là sách góp nhặt nhiều mảnh vụn truyền
khẩu từ thời xưa, đến thời Xuân Thu được Khổng Tử
(500 năm tCN) san định lại thành Kinh Thư, và tu chỉnh lại vào thời Tây
Hán (133 năm tCN) . Chúng ta nên chú ư, nội dung cổ sử Trung Quốc nên hiểu một
cách khách quan như sau : cái nền là căn cứ vào chuyện truyền khẩu, cái
nét là chủ kiến của triều đại đang trị v́, và cái nếp
th́ chung chung lấp lửng không có ǵ rơ ràng, và thật mơ hồ về bản sắc
dân tộc . Tước hiệu của thời Tam Hoàng, nhiều học giả đă khẳng định
rơ là "Đức Hiệu" để đặc trưng cho thời đại lúc
sơ khai c̣n sinh hoạt bằng du-canh và du-cư . C̣n về phần niên kỷ, th́ các nhà sử
gia đều đồng ư là chỉ có giá trị tam khảo chứ không xem là niên đại
chính thức của lịch sử .
- Hữu-Sào Toại-Nhân : (?tCN) Con người biết đến kết cành
làm tổ trên cây để ở và để tránh thú dữ (hữu là có, Sào là tổ để
ở). Biết khoan cây , cọ đá để tạo lửa nấu ăn (toại là thỏa
măn, nhân là người ; người biết dùng lửa cho toại sống). Huyền thoại
có ghi : Toại Nhân tuần thú xuống Nam Thùy, nghĩa là, những tiến bộ vào
lúc bấy giờ cũng được lan truyền xuống cả phương Nam .
- Phục Hy Nữ Oa : (4480-3365? tCN) con người biết nuôi thú vật,
biết kết thằng làm lưới bắt cá . Biết chế đàn cầm. Biết trồng
dâu nuôi tằm, dệt vải . Biết xây nhà trên đất bằng . Hiểu được
lư tự nhiên mà phát kiến ra dấu gạch của âm-dương bát-quái . Kinh Dịch có ghi
"Phục Hy thị một" , nghĩa là Phục Hy khai sáng đầu tiên bằng dấu
gạch trên đá, trên thẻ tre, gọi là quải (treo), sau nầy đọc trại
ra thành quái, rồi dần biến thành từ quẻ như hiện nay hay dùng .
- Thần Nông Thị : (3320-3080? tCN) con người biết đẽo gỗ
chế tác cày bừa, đốt rừng làm ruộng rẫy. Biết họp chợ trao đổi
hóa vật cần dùng . Biết dùng cây cỏ làm thuốc trị bệnh . Và xiễn minh, lư
âm dương . Kinh Dịch có câu "Thần Nông Thị Tác", nghĩa là Thần Nông kế tục
tác thành trọn bộ Kinh Dịch bằng những dấu gạch liền, dấu gạch
đứt, và những dấu chấm den trắng làm biểu tượng đồ h́nh cho
: Thái Cực, Âm Dương, Tứ Tượng, Bát Quái, Trùng Quái, Hà Đồ, Lạc Thư
... , phần lư giải th́ truyền miệng (như tầm sư học đạo, v́ thời
nầy chưa có chữ viết) .
...
Thời Tam Hoàng, được gọi là Thời Bộ Lạc Cộng Chủ, thời
nhân sinh đại đồng . Vào thời nầy, chưa có bộ lạc nào lấn
hiếp đồng loại, đời sống con người lẻ tẻ từng
thị tộc, bộ tộc, hoặc là du mục du cư, hoặc là trồng trọt định
cư . Đất th́ quá rộng, người th́ quá ít, nhu cầu lượm hái đuổi
bắt từ thiên nhiên thừa mứa cho cuộc sống .
Đời sống con người thời ấy thật sự thái b́nh, không bị trị,
không biết tranh giành . Chủ yếu cho đời sống của thời đó, tất cả
các Thị Tộc, Bộ tộc, Bộ lạc cùng suy tôn và thánh hóa một Cộng Chủ thần
minh truyền dạy cho con người : biết dùng lửa để nấu ăn và làm nông
nghiệp . Biết tầm tang để mặc ấm . Biết làm nhà để ở trên
đất . Biết dùng thảo mộc để làm thuốc trị bệnh . Biết tôn
thờ Thần Thánh để làm chổ tựa cho tâm linh . Và nhất là thành tâm học hỏi
"Âm Dương Dịch Lư" .
Kinh Dịch là bộ sách cổ nhất tóm lược lịch sử thời Tam Hoàng nhiều
nhất, nhờ vào bộ sách nầy mà ngày nay chúng ta mới hiểu được thời
Tam Hoàng .
Thời Ngũ Đế
Kinh thư có ghi lại hai Đế cuối là Đế Nghiêu va Đế Thuấn, c̣n trên
nữa th́ không . Sách cổ "Trúc Thư Kỷ Niên", và sử kư "Ngũ Đế Băn Kỷ" có
kể chuyện Hiên-Viên Hoàng Đế, Đế Chuyên-Húc, Đề Cốc, Đế Nghiêu,
và Đế Thuấn , ghi chép đủ 5 Đế . Nhiều học giả ước định
có đến 7 Đế, nhưng người xưa thích gói gọn vào các huyền số 3,
5, hay 18 của Dịch Lư .
- Hoàng Đế (2697-2600 tCN) Mẹ Hoàng Đế tên là Phụ Băo,
thấy vầng sáng bao quanh sao Su (cḥm sao Bắc Đẩu) mà thụ thai, sinh ra Hoàng Đế,
có tên tộc là Hiên-Viên thuộc bộ lạc Hữu Hùng . Truyền thuyết kể rằng
Hoàng Đế thắng Xuy Vưu và Viêm Đế , là nhờ chế ra trống bịt
da thú và nhờ sự trợ giúp của bốn mănh thú Hổ, Báo, Hùng, Bi (4 bộ lạc liên
minh). Thắng được Viêm Đế, Hiên-Viên tức vị Hoàng Đế
(Đại Tù Trưởng) . Tung tích của Hoàng Đế ở Cam Túc và vùng hoạt động
lẩn quẩn trong phạm vi tỉnh Hà Nam ngày nay. Tương truyền vào thời Hoàng
Đề đă chế ra được xe, thuyền, ... măo áo xiêm y may thêu được
ngũ sắc . Sai Thương-Hiệt chế tác văn tự, chữ viết khoa Đẫu
(?) , sau nầy giới ngữ pháp gọi là chữ chân chim .
- Đế Chuyên-Húc Cao Dương Thị (?tCN) năm 20 tuổi lên ngôi Cộng
Chủ, 30 tuổi sinh Bá Cổn. Bá Cổn sau nầy trị thủy không thành . Cuối đời
Chuyên-Húc có Thuật-Kế ḍng Thần-Nông dấy loạn .
- Đế Cốc, Cao Tân Thị (?tCN) Đế Cốc là cháu Nguyên Hiệu
. Nguyên Hiệu là con của Hoàng Đế , lập lệ người mù đánh chuông khánh ,
rồi phượng hoàng đập cánh múa hát . Đai ư, đến thời nầy cung cách
sinh sống đă nghiên về văn hóa nông nghiệp và tôn quí chim như tục lệ cư
dân địa phương .
- Đế Nghiêu (2359-2259 tCN) là hậu duệ của Hoàng Đế, đô ở
Thái Nguyên (nam bộ tỉnh Sơn Tây) lấy hiệu là Đường . Sai Hy Trọng, Hy
Phúc, Ḥa Trọng, Ḥa Phúc, tung đi bốn phương, trông mặt trời, mặt trăng
để làm lịch, định các tháng, một năm 366 ngày, theo tháng nhuận, cho dân biết
thời tiết mà làm ruộng . Đế Nghiêu ở ngôi được 70 năm không truyền
ngôi cho con, mà truyền cho hiền tài là Đế Thuấn người Đông Di) .
- Đế Thuấn (2259-2208 tCN) lúc Đế Thuấn c̣n là nhiếp chính đă
đày Ông Cổn về tội đấp đập ngăn nước làm sông Hoàng Hà bị
đại hồng thủy gây lũ lụt tai vạ lớn. Tiếp đó, Đế Thuấn
sai Ông Vũ, con của Ông Cổn, thay cha trị thủy. Ông Vũ khai ng̣i sông, nước chăy
thuận ḍng ra bễ, đạt thành công trạng . Đế Thuấn truyền ngôi cho Ông
Vũ . Đến khi Đế Thuấn băng, Ông Vũ tránh đi, nhưng các chư hầu
(bộ lạc) không đến chầu triều của con Đế Thuấn, mà lại theo
chầu Ông Vũ . Ông Vũ lên ngôi lập thành nhà Hạ .
...
Thời Ngũ Đế (2697-2205 tCN) c̣n gọi là thời bộ lạc liên minh, vào
thời nầy đă có bộ lạc mạnh yếu, lấn hiếp xâm chiếm, bạo lực
bạo hành, đánh đuổi cướp giựt, để được sinh tồn, các
bộ lạc buộc phải chống cự hoặc tùng phục. chống cự th́ phải
liên minh, c̣n thuận theo kẻ mạnh cũng là một cách liên minh . Liên minh với kẻ
mạnh đồng nghĩa với a ṭng, tất phải tham gia chiếm đoạt,
vừa được yên thân lại thêm được chia chiến lợi phẩm.
Nếu không th́ phải dời cư thật xa thật sâu vào nơi rừng rậm hay đồng vắng
lúc bấy giờ vẫn c̣n hoang dă mênh mông . Phương Nam đang là Đất Hứa
.
Thời Tam Đại
Theo truyền thuyết, trời ban cho vua Đại Vũ "Hồng Phạm Cửu
Trù" là phạm qui lớn nằm trong 9 trù của Lạc Thư Kinh Dịch để
trị nước xem chương IX, Cửu Trù) . Sau nầy nhà Thương Ân tiếp giữ
. Khi nhà Thương Ân mất Cơ Tử truyền lại cho Vơ Vương nhà Chu . Qua công
tác trị thủy đồng nghĩa là trị nước, vua Đại Vũ khai phá được
thêm một vùng b́nh nguyên phía Đông của người Đông Di khá rộng lớn
.
- Nhà Hạ (2205-1784 tCN) Ông Đại Vũ là con của Ông Cổn,
hậu duệ Đế Chuyên Húc, thuộc bộ tộc trung bộ tỉnh Hà Nam , lên ngôi
thiên tử, lập thành triều đại nhà Hạ, đô ở Hưng Thành (Hà
Nam) . Tập tục du mục vẫn c̣n dời đổi đô ấp và thể
chế bấy giờ mới có h́nh thức vương triều liên bang, chưa thành thể
chế phong kiến phức tạp như ngày nay . Nhà Hạ trị v́ 442 năm
... Trước kia con lấy họ mẹ (tính), đến đời vua Đại
Vũ v́ có phân chia đất ruộng cho bộ lạc liên minh, cha đă lấy họ
theo tên vùng đất đang ở, nên từ đó con theo họ cha (tích thổ
tính) . Và cũng từ đó : tôn tổ (tôn Cha), kính tông (trọng Họ), báo bản (tŕnh
gốc), truy viễn (xét xưa), tế tự (gia phă, tộc phă) dân chúng măi đến thời
nay vẫn c̣n tuân giữ .
- Nhà Thương (1783-1134 tCN) tổ nhà Thương là Ông Tiết được
sắc phong ở đất Thương (Hà Nam) đánh đuổi vua Kiệt, vị vua cuối
đời nhà Hạ, lên ngôi thiên tử lấy hiệu triều đại là Thương,
đô ở đất Bạc (Hà Nam). Đến đời Bàn Canh đổi hiệu lại
là Ân. Đến đời Trụ bị Vũ Vương Nhà Chu thay. Nhà Thương Ân trị
v́ 648 năm, Thương triều trăi qua 10 đời với 18 vị vua, Ân triều th́ 17
đời với 30 vị vua . Nhà Thương Ân chuộng vơ, trọng tế tự, văn
hóa thịnh hơn nhà Hạ . Khai quật thu lượm từ khảo cổ học cho thấy
nhiều chứng cứ về chữ viết và nét gạch bát quái trên di chỉ mai rùa bói toán
của thời nhà Thương . Nước Tàu thời cổ bắt đầu thịnh
về chữ viết có lẽ bắt đầu vào thời nầy .
- Nhà Chu (1134-256 tCN) nhà Chu dấy lên tại huyện Kỳ Sơn (tỉnh Thiễm
Tây ngày nay). Thủy tổ là Khí, làm quan Hậu Tắc thời Đế Thuấn được
phong ở đất Thai (thuộc Thiễm Tây), truyền đến Bất Quật th́ mất
chức quan, trốn ở chung với người Nhung Dịch. Đến thời Hậu
Tắc th́ phục hồi được chức quan, truyền 10 đời kế tục,
đến thời Đăn Phụ bị Nhung Dịch bức bách dời cư về Kỳ
Sơn (Thiễm Tây), lấy hiệu là Chu . Đăn Phụ truyền ngôi cho Qui Lịch,
Qui Lịch truyền lại cho Xương, tức là Văn Vương nhà Chu ... Vua
Trụ bỏ ngục Văn Vương tại Dũ Lư . Sau đó cho giữ chức Tây Bá
sai đi đánh dẹp Khuyễn Nhung, Mật Tu ở phía Tây, và nước Kỳ,
nước Vu, nước Sùng tại phía Đông. Lúc bấy giờ Văn Vương được
2/3 chư hầu phương Bắc qui phục, và thu dụng được h́n tài Lữ
Vọng, tức Khương Tữ Nha ... Tây Bá Cơ Xương tức Văn Vương
mất, con là Cơ Phát nối ngôi hiệu là Vơ Vương, liên kết cùng 800 chư hầu
(bộ lạc) phá tan quân nhà Ân của Trụ Vương tại Mục Dă . Diệt Trụ
xong nhà Chu giáng chức Vơ Canh con của Trụ Vương về Lạc Ấp ...
Vơ Vương băng, con là Trung lên ngôi lấy hiệu Thành Vương, việc triều chính
giao cho Chu Công nhiếp chính 7 năm và các đời tiếp theo, sử gọi là thời Tây
Chu, trị v́ được 324 năm ... Tiếp thời Tây Chu là Đông Chu Xuân
Thu (722-481 tCN) và Đông Chu Chiến Quốc (403-221 tCN) kéo dài 424 năm, truyền ngôi được
35 đời vua ... nhà Tần diệt Chu lập thành nước Tần vào năm
221 tCN .
...
Thời Tam Đại, c̣n gọi là thời Vương Triều Liên Bang, tuy h́nh thức liên
minh có tiến bộ, thể chế phong kiến bắt đầu có tổ chức, nhưng
trong Trung quốc Sử Lược có viết rằng, nhà Hạ liên tục dời đô trong
phạm vi tỉnh Hà Nam (cho thấy vẫn c̣n t́nh trạng du cư) . Nhà Thương Ân
cũng luôn dời cư trong ṿng tỉnh Hà Nam . Đến thời nhà Chu, tuy có một thời
gian dài an định tại Tây An, Thiễm Tây (Tây Chu), nhưng rồi cũng phải dời
cư về Hà Nam, v́ người Nhung Dịch ở miền Tây Bắc luôn đến cướp
phá .
Vào thời nầy danh từ "Quốc Gia" không đồng nghĩa với "Nhà Nước"
như hiện nay . Nghĩa cổ của "quốc" là tư sản của vua, thời Ngũ
Đế, Hạ, Thương, quốc chỉ có tỉnh Hà Nam và Sơn Tây . đến thời
Tây Chu th́ quốc của vương triều mới có thêm được Thiễm Tây
... C̣n "Gia" là tư sản của quan Đại Phu gọi là đất phong
... Đồng nghĩa với từ "Quốc Gia" như bây giờ th́
thời ấy gọi là "Xă Tắc" (xă là thần đất, tắc
là thần lúa) . Đất riêng của các chư hầu (bộ lạc) th́ gọi là Bang .
Đến thời nhà Hán, v́ húy chữ Bang là tên của Lưu Bang Hán Cao Tổ, nên dùng chữ
"Quốc" thay vào, nên từ đó gọi là Trung Quốc măi cho đến ngày nay, thay Trung
Bang .
Nhà Tần lập quốc năm 221 tCN, danh từ Tần phiên âm là tsin,
Pháp văn đọc là Chine (Sin-nờ), Anh văn đọc là China (tờ-chai-na),
và Việt văn là Tàu . Danh từ gọi Hán nhơn bắt đầu từ nhà Hán (208 tCN),
Đường nhơn từ thời nhà Đường (571 sCN), danh từ Trung Hoa bắt
đầu từ ngày thành lập Trung Hoa Dân Quốc (1937), và danh từ Trung Quốc dùng để
gọi chung toàn bộ các sắc tộc hiện sống trên lănh thổ Trung Quốc ngày nay
.
3. Cội Nguồn Tộc Việt
Cội nguồn luận giăi có căn cơ th́ mới nhận ra "gốc", có thấy được
gốc th́ mới nhận ra "rễ", mới h́nh dung ra được đủ "gốc-rể"
cùng thông . Cho nên lối quăng diển truyền thuyết, huyền sử, điển
tích, tất phải kết hợp, huyền sử làm nền, chứng cứ
làm nét và ẩn dụ với ẩn nghĩa làm nếp ... có được
như vậy th́ những ǵ là đặc trưng cho tộc Việt, những ǵ đang là kho
tàng trữ liệu từ ngàn xưa, con cháu hậu thế ngày nay mới có khả năng khai
quật . Bảy đề mục có liên quan đến Cội Nguồn Tộc Việt là :
1. Họ Thần Nông, 2. Họ Hồng Bàng, 3. Âu Cơ Lạc Long Quân, 4. Hoàng Đế diệt
Xuy Vưu, 5. Tiếng gọi Đồng Bào, 6. Vật Tổ Tiên Rồng, 7. Hùng Vương
Lạc Việt , diển giăi theo lư luận như sau :
3.1 Họ Thần Nông
Theo ông Ville Durant viết trong Lịch Sử Văn Minh Trung Quốc như sau : thời
thượng cổ Trung Quốc không bao gồm một dân tộc duy nhất và thuần chất,
mà là một kết hợp của nhiều giống người, nhiều sắc tộc, khác
nhau từ nguồn gốc, ngôn ngữ , chí đến nghệ thuật và đặc tính
... Nền văn minh Trung Quốc ngày nay đă phát triển ít nhất là 7000
năm rồi ...
Theo nhà Nhân Chủng Học Eberhard đă khẳng định như sau :
ngay từ xưa đă thấy dấu vết người Việt trong tất
cả miền Nam sông Dương Tử cũng như tại phương Nam và Đông
Nam .
Thời Thần Nông có 5 tiến bộ nổi bật là,
- Biết làm nông nghiệp (lúa nước)
- Biết dùng cây cỏ làm thuốc trị bệnh
- Biết nghề tầm tang để được mặc ấm
- Biết âm dương dịch lư, do Phục Hy phát kiến
- Biết luyện kim, chế tạo ra đồ đồng
Truyền thuyết kể rằng, cháu 3 đời họ Thần Nông là Đế Minh nhân
lúc đi tuần du phương Nam th́ lấy con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục Kinh Dương
Vương (con Thứ), phong cho cai quản phương Nam. Đế Minh lại phong cho con
trưởng là Đế Nghi cai quản phương Bắc vùng Hoàng Hà. Đại ư nói
lên cội nguồn Bách Việt là đa sắc tộc của cả 2 miền có mặt khắp
mọi nơi trong thời cổ Trung Quốc .
Lúa nước ngày xưa trồng trên đất rừng và triền núi, chỉ trồng
được vào mùa mưa tại những nơi mà mùa mưa kéo dài từ 4 đến
6 tháng trong năm, c̣n gọi là lúa rẫy. Lúa trồng trên ruộng cạn, phải có
hệ thống và phương cách dẫn thủy nhập điền, nên c̣n gọi là lúa
cấy . Hoặc, lúa trồng dưới ruộng sâu, đến mùa nước nổi
bị ngập lụt từ 2 đến 5 mét , th́ cần phải trồng loại lúa thích
ứng cao vượt theo ngọn nước dâng lên nên gọi là lúa sạ ...
V́ thế công xuất trồng lúa nước ngày xưa đ̣i hỏi phải có kỷ
thuật nông nghiệp tương xứng với kinh nghiệm về thời tiết, khí hậu,
kỷ thuật từ gieo tới gặt, từ vận chuyễn đến lưu trữ,
từ thô sản đến thành lương thực ... nhất nhất đều phải
thích nghi, tương ứng, đ̣i hỏi một sự điều hợp tài t́nh. Tŕnh độ
cư dân thời xưa mà được truyền dạy trồng lúa nước, đạt
kỷ thuật nông nghiệp, tất người khai sáng và hướng dẫn xứng đáng
được suy tôn là Thần Nông .
...
Năm 1965, ông Chester German (thuộc khoa Khảo Cổ) phát hiện ở Hang Thần tại
vùng Bắc Thái Lan có hóa thạch của vỏ lúa, đậu, mè, hồ tiêu, bí, dưa leo ...
phân chất carbon xác định các di chỉ nầy có từ niên kỷ 3000 đến 6000 năm
trước Công Nguyên (tCN), chứng cứ nầy đưa đến xác định là dân
cư vùng Đông Nam Á biết trồng cây, trồng ngũ cốc, trồng lúa nước,
trước tiên trên thế giới .
Theo ông Needham th́ Thần Nông (tên gọi theo ngữ pháp, Việt) là nhân vật thần thoại
liên quan mật thiết về nông nghiệp, vốn là của dân bản địa phương
Nam.
Theo Lịch Sử Văn Hóa Trung Quốc của ông Đoàn Gia Kiên chủ biên, th́ "lúa đạo"
được du nhập vào trồng tại vùng Trung Nguyên sông Hoàng Hà từ đời nhà Chu,
thế kỷ XIII tCN . Căn cứ theo bút tích nầy ông Trần Ngọc Thêm, TVBSVHVN, suy diễn
, có thể danh từ gạo là do từ "đạo" nầy mà có .
Việc tôn thờ Thần Nông là thủy tổ, chứng minh một trong những dấu
vết của người Việt kế thừa những thành tựu của cơ tầng
văn hóa Nam Á cổ xưa ... Theo GS Đinh Gia Khánh, đối với người
Tàu th́ họ không hề coi Thần Nông là thủy tổ mà xem đó là một thiên đế
quản lănh phương Nam . Thần Nông chỉ được những cư dân trồng
lúa, và dân Lạc Việt đặc biệt tôn thờ .
3.2 Hồng Bàng Thị
Theo Giáo Sư Herold J.Wiens, trong quyển "Han Chinese Expansion in South of China" viết : Theo ḍng sông
Dương Tử, Viêm Việt đă vào trước, định cư khắp miền Thục
Ba (thuộc Thanh Hải và Tây Khương ngày nay), trải rộng đến b́nh nguyên, dọc
theo duyên hải phía Đông, vào đến tận trung lưu sông Hoàng Hà (thuộc tỉnh Hà
Nam ngày nay) .
Theo Giáo Sư Lương Kim Định, trong quyển Triết Lư Cái Đ́nh * :
Tộc Việt vào thời thượng cổ đă có mặt khắp 3/4 nước Trung Quốc
ngày nay. Thoạt kỳ thủy, Viêm tộc theo ḍng sông Dương Tử vào khai thác vùng Trường
Giang, thất tỉnh là : Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Giang Tô, An Huy, và Chiết
Giang. Rồi dần theo b́nh nguyên Hoa Bắc khai thác vùng Hoàng Hà lục tỉnh là : Hà Nam, Hà Bắc,
Sơn Tây, Sơn Đông, Thiễm Tây và Cam Túc. Phía Nam th́ lan tới lưu vực Việt Giang
ngũ tỉnh gồm : Vân Nam, Quí Châu, Quăng Tây, Quăng Đông, và Phúc Kiến . Như vậy, Viêm
Việt đă có mặt khắp nước Tàu cổ đại trước khi các
dân tộc khác tràn vào . *référence của Trần Kim Khanh .
Theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư , kỷ Hồng Bàng thị (2878-258 tCN) đoạn
thời gian dọc dài đến những 2260 năm , từ cuối đời Thần
Nông (3320-3080 tCN) , trước thời Ngũ Đế hoa tộc cả 182 năm . Kế
tục kỷ Hồng Bàng thị có kỷ Nhà Thục 50 năm (257-208 tCN) th́ bị Triệu Đà
mang quân Tần sang thu hẹp lại c̣n vùng Lưỡng Quăng và Bắc Việt . Sau đó
bị nhà Hán thôn tính, từ đó nước Việt bị Bắc thuộc lần nhất
(111 tCN) .
Kỷ Hồng Bàng Thị dựng nước, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ, có :
Lộc Tục Kinh Dương Vương, Âu Cơ Lạc Long Quân . Đến 18 đời
Hùng Vương đổi quốc hiệu là Văn Lang . Dân tộc Việt tôn thờ :
- Thần Nông là thủy tổ các tộc phương Nam
- Âu Cơ Lạc Long Quân là thủy tổ Bách Việt
- Hùng Vương là thủy tổ Lạc Việt
Tên Lộc Tục, có nghĩa là kế tục thụ hưỡng lộc tinh
thần từ tổ tiên truyền cho . Tước hiệu Kinh Dương Vương là đăm
nhận vương vị Kinh Châu của vùng Hồ Quăng và Dương
Châu vùng Giang Nam .
Hồng Bàng Thị , Thị là thị tộc của tộc dân cư, Hồng là giống
chim lớn ở Dương Tử Giang, gọi là chim hồng . Bàng là cái nhà lớn . Hồng
bàng Thị có nghĩa là, cái nhà lớn của cư dân dùng "chim làm vật tổ" trong giai đoạn
đầu của Viêm Việt. Mải về sau, khi dân Việt trải dài dọc theo duyên hải
th́ mới nhận vật tổ "Tiên Rồng"
Xích Quỉ là quốc hiệu đầu tiên từ thời Kinh Dương Vương ,
Quỉ là chủ lớn, quyền thế lớn (quỉ chủ). Xích là đỏ, màu đỏ
chỉ phương Nam (theo Ngũ Hành th́ thuộc hành Hỏa). Ông Châu Diển nhà dịch học
thời cổ, đă gọi nước Tàu thời xưa của thới Tam Hoàng là "Xích Huyện
Thấn Châu" . Kỷ Hồng Bàng Thị có 3 đợt dựng nước kể ra như
sau :
- thời "Nhân Sinh Đại Đồng" vào cuối thời Thần Nông lúc Đế Minh
truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi ở phương Bắc. Đế Minh gom
các bộ tộc Miêu, Thái, Việt về phương Nam tại vùng Ngũ Hồ Ngũ Lỉnh,
lập thành 3 hệ giao cho Lộc Tục cai quản, Lộc Tục Kinh Dương Vương
lập nên Kỷ Hồng Bàng Thị .
- Kinh Dương Vương an cư cho : hệ Âu Việt (Thái) ở Tứ Xuyên, Qui Châu,
Vân Nam, Miến Điện. Hệ Miêu Việt ở các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang
Tây. Hệ Lạc Việt ở Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Dông, Quảng Tây, Bắc
Việt, Trung Việt .
- Hùng Vương thứ nhất theo mẹ là Âu Cơ lên núi Phong Châu (Bạch Hạc) lập
thành nước Văn Lang. Cùng với 17 đời Hùng Vương kế tục sự nghiệp
Hồng Bàng Thị (theo GS Kim Định) .
Ở phương Bắc tại vùng Hoàng Hà, Hoa tộc từ Tây Bắc, Hiên Viên là tộc
trưởng tổ chức bộ lạc liên minh tràn xuống chiếm cư tỉnh Hà Nam,
tức hiệu Hoàng Đế, chấm dứt thời Tam Hoàng, lập nên thời đại
mới, Ngũ Đế .
- Ngũ Đế (2697-2208 tCN) trị v́ 489 năm bị nhà Hạ lên thay.
- Nhà Hạ (2205-1783 tCN) trị v́ 422 năm th́ bị nhà Thương thay.
- Nhà Thương-Ân (1783-1134 tCN) trị v́ 649 năm th́ nhà Chu thay.
- Nhà Chu (1134-247 tCN) trải qua 3 giai đoạn là, Tây Chu (1134-722 tCN) trị v́ 362 năm,
Xuân Thu (772-481 tCN) dai dẵng với 291 năm và Chiến Quốc (481-221 tCN) với 260 năm
chinh chiến .
Từ thời Ngũ Đế đến cuối thời Tây Chu tổng cộng 1922 năm.
Tại phương Bắc vùng Hoàng Hà có tranh ngôi vị, có thay đổi ngôi, có tổ chức
thể chế như : Hoàng Đế, Vương vị ... thời Xuân Thu các bộ tộc
phương Bắc, Trịnh, Triệu, Tề, Hàn, Tần ... danh gọi Chư Hầu xưng
hùng tranh vương bá, tạo nên t́nh trạng chiến tranh triền miên .
Ở phương Nam vùng Dương Tử và phụ cận, Hồng Bàng Thị vẫn
được b́nh an, có tiếp nhận cư dân chạy loạn về đấy cùng sinh
sống. Thời chiến quốc (481-221 tCN) chiến tranh lan rộng thêm và lôi cuốn cả
cư dân phương Nam. Tuy cùng chung gốc Bách Việt nhưng lại thẳng tay tiêu diệt
nhau và tự làm suy yếu cho nhau, Việt diệt Ngô (Ngô Vương Phù Sai) vào năm 473
tCN ; Sở diệt Việt (Việt Vương Câu Tiển) vào năm 333 tCN.
Tần diệt Sở năm 221 tCN, thống nhất 2 phương Bắc Nam làm một,
cai trị bằng tổ chức trung ương tập quyền.
Riêng Âu Lạc, An Dương Vương chiến thắng tướng Đồ Thư
nhà Tần, giử được tự chủ ở mạn Hồng Hà Bắc Việt, trị
v́ đến năm 208 tCN th́ bị Triệu Đà thôn t́nh lập thành Nam Việt .
...
Truyền thuyết về Hồng Bàng Thị có trường phái dè dặt không tin, nhưng
gần đây khảo cổ học đă chứng minh xác thực rằng, đă có cư dân
ở mạn sông Hồng trước Công Nguyên (viết tắt là tCN) nhiều
ngàn năm. Nhân Chủng Học, Dân Tộc Học và Cổ Sử Học đă xác định
như sau :
- Họ Thần Nông là Đức Hiệu trên đất nước Viễn Đông vào thời
thượng cổ.
- Đă có sự hiện diện của cư dân "đa sắc tộc" tại Trung Quốc,
trước khi Hoa tộc từ Tây Bắc tràn xuống xâm cư.
- Phương Bắc có thời Xuân Thu ly loạn v́ Hoa Tộc xâm chiếm từng tỉnh.
- Phương Nam có thời chiến quốc với Sở-Ngô-Việt tự tiêu diệt lẫn
nhau.
- Từ Cam Túc Tây Bắc, nhà Tần nhất thống Trung Quốc vào năm 221 tCN.
- Lạc Việt là cư dân chính thống trên mạn sông Hồng Bắc Việt từ 3000
năm tCN.
- Chứng minh có nhiều tộc Việt là cư dân ngay trên đất nước Tàu dưới
nhiều tên gọi như: Âu Việt, Điền Việt, Tây Âu ... tại miền Thục
Ba ; Dương Việt, Mân Việt, U Việt, Kinh Man, Đông Việt ... tại vùng Trường
Giang và Duyên Hải ; Nam Việt ... ở Lưỡng Quảng ; và Việt Thường, Lạc
Việt, Việt Mường ... tại Bắc Việt .
Niên kỷ Hồng Bàng Thị (2878-258 tCN) có đến 2620 năm, nếu phân tích từ đời
Lộc Tục Kinh Dương Vương và Sùng Lăm Lạc Long Quân, cộng với 18 đời
Hùng Vương, vị chi là 20 đời. Ngày nay người chia 2620 cho 20 để có số
b́nh quân 131 năm cho một đời vua Hùng ... căn cứ vào đáp số b́nh quân nầy
biện lư là không thể có được ! v.v. và v.v. ...
Tiền nhân Việt cổ với truyền thuyết Hồng Bàng Thị c̣n có ngôn ngữ
"Dịch Số Học" ! Theo âm dương dịch lư, các huyền số như : 1,2,3,5,7,9,12,15,45,55,100
không như thường nghĩa ... mỗi con số nầy đều có ư nghĩa riêng, nên
mới gọi là "lư số" (xem chi tiết nơi chương V: Thái Nhất) .
Con số 18 đời Hùng Vương không nên hiểu là 18 lần truyền ngôi, mà phải
hiểu là có rất nhiều đời liên tục không thể biết là bao nhiêu ? v́ là thượng
cổ sử, các đời Hùng Vương đó đă nghiêm túc với văn hóa Việt cổ
! hành xử đúng theo đạo lư của con số 18 , như sau : Lộc Tục Kinh Dương
Vương và Sùng Lăm Lạc Long Quân biểu trưng con số 2 với khởi nghĩa của
"Âm Dương sinh" . Con số 18 đời Hùng Vương là biểu trưng 6 lần 3 = 18
, hoặc 9 lần 2 = 18 . Lư nghĩa của số 3 là thuyết Tam Tài, số 5 là thuyết
Ngũ Hành và số 9 là biểu tượng Cửu Đỉnh, Cửu Trùng, là ngôi vị cao
nhất trong thiên hạ, mà cũng thời mang ư nghĩa tôn trọng như : Cửu Thiên, Cửu
Huyền, Nữ Cửu (nam thất nữ củu) ...
3.3 Âu Cơ Lạc Long Quân
Đế Nghi ở phương Bắc truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị
Bắc Phương. Nhân thiên hạ vô sự bèn sai quân thần là Xuy Vưu thay ḿnh trông
coi quốc sự, rồi đi tuần xuống nước Xích Quỉ ở phương
Nam. Khi đó Long Quân đă về Thủy phủ, trong nước không có chúa. Đế Lai
bèn để ái nữ là Âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại,
rồi đi chu du thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ
lạ, trân cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc, các thứ đá quí, các cây trầm, đàn,
cùng các sơn hào hải vật ... không thiếu thứ ǵ, c̣n khí hậu bốn mùa không lạnh
không nóng. Đế Lai rất ái mộ, vui mừng mà quên trở về
...
Dân phương Nam khổ v́ bị người phương Bắc quấy nhiễu
không sống yên ổ như xưa, mới cùng kêu gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ! ở
đâu mà để dân phương Bắc sách nhiễu dân phương Nam thế nầy" .
Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ có dung mạo
đẹp đẽ lạ kỳ, trong ḷng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên
phong tư tú lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi
vừa ca hát đánh trống. Cung điện tự nhiên mọc lên, Âu Cơ vui ḷng theo
. Long Quân dấu Âu Cơ ở Long Đài Nham.
Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi
t́m. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm h́nh vạn trạng, yêu tinh, quỷ
dử, rồng rắn, hổ voi ... làm cho bọn đi t́m đều sợ hăi không dám sục
sạo. Đế Lai đành trở về Bắc, truyền ngôi đến đời
Du Vơng ... (Khi phương Bắc bị thay đổi chủ) Âu Cơ
dẫn con về tới biên giới, Hoàng Đế cho binh ra giữ chặt cửa ải,
mẹ con Âu Cơ không thể về được bèn quay về lại nước
Nam ...
Truy nghĩa , Âu Cơ là bậc mẫu nghi tổ mẫu của Bách Việt. Âu là mẹ,
loài chim Âu, âu ca, âu yếm (thương yêu) . Cơ là nền tảng, cơ cấu, cơ bản,
... cơ là một sự việc sắp xảy đến nhưng hăy c̣n trong ṿng manh
nha chưa thành h́nh rơ ràng, như kích cốc pḥng cơ, thần cơ diệu toán,
tri cơ tiến thoái tồn vong chi đạo ... Âu Cơ là nguyên lư
mẹ, là nền tảng của Mẹ sinh, Mẹ dưỡng, Mẹ giáo huấn, là giọng
ru xuất từ ḷng mẹ .
Sùng Lăm lạc Long Quân là con của Lộc Tục Kinh Dương Vương, cháu đời
thứ năm của họ Thần Nông . Sùng là ưa chuộng, tín nhiệm, ái mộ, sùng kính,
sùng đạo ... Lăm là hiểu biết tỏ tường cả 2 mặt trái phải nổi
ch́m, lịch lăm, quyền uy. (Sùng Lăm, yêu kính tri thức). Lạc là vui, Long là rồng, Quân là vua.
Lạc Long Quân là nguyên lư Cha, là tổ rồng của tộc Việt. Âu Cơ - Lạc Long Quân
là biểu tượng tiên rồng, là biểu tượng Tâm Linh cho
dân tộc Bách Việt , Lạc Việt .
Phân mục lược nghĩa :
- Đế Lai vua phương Bắc, đi tuần thú phương Nam không là vùng cai trị
của ḿnh, ám chỉ đi lấn chiếm để săn lùng của quí hiếm.
- Để lại thị tỳ và Âu Cơ ở lại nơi hành tại, chỉ rỏ
hành tại là nơi trú ngụ vừa sang đoạt.
- Lạc Long Quân phản ứng, lấy lại phần đă mất và bắt giữ Âu Cơ.
Tại 3 phân mục vừa kể, chứng minh thời đó tuy cùng gốc Thần
Nông nhưng đă bộc lộ tính lấn hiếp từ phương Bắc .
- Âu Cơ vui ḷng kết duyên cùng Lạc Long Quân ở Long Đài Nham.
- Đế Lai t́m Âu Cơ không được nên quay về phương Bắc.
- Truyền ngôi cho Du Vơng.
- Âu Cơ sinh bộc 100 trứng, nở 100 con trai. Dẫn con về Bắc bị Hoàng Đế
chận cữa ải không cho vào, phải quay về Nam. Sự kiện cho thấy phương
Bắc đổi ngôi, và đổi luôn cả chủ, nên Âu Cơ và đàn con cố dành lại
phương Bắc nhưng không được phải quay về Nam (Phần chi tiết nơi
3.4 Hoàng Đế diệt Xuy Vưu).
Truyền thuyết của kỳ duyên trai Nam gái Bắc đă thần thoại hóa Lạc
Long Quân và kỳ diệu hóa gốc tích của tộc Bách Việt, ngụ ư cho biết những
sắc tộc như Cữu Lê, Tam Miêu, Viêm Việt, ... đều chung một cội
nguồn cho đến khi bị Hoa tộc tràn xuống xâm lăng, nên Âu Cơ
và các con gấp gấp về cứu nhưng không kịp .
Đối ngược hoàn cảnh là trai Bắc gái Nam là truyền thuyết kể
lại Mục Vương nhà Chu đi tuần thú phương Nam thương nàng Thịnh
Cơ, nhưng bị ngăn cách bên nầy sông bên kia sông Dương Tử, thuyền sang không
có ... may sao trời cũng chiều ḷng người, bao nhiêu con qui rùa bổng đâu ùn ùn kéo
tới, tụ lại kết sang sát vào nhau thành cầu giúp cho Mục Vương và Thịnh
Cơ tương hội. Ngụ ư, mai qui (lưng rùa) tượng bầu trời,
yếm qui(ngực rùa) tượng đất tức địa phương với 4 góc
vuông vức. Nói lên sự đồng thuận của trời và đất .
Cả 2 huyền thoại nầy đều hàm ư biểu lộ sự trăn trở 2 miền
Nam Bắc dưới áp lực 2 chế độ phụ hệ và mẫu hệ bị
cách nhau nên không thể kết giao .
3.4 Hoàng Đế diệt Xuy Vưu
Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên mang chư hầu tới đánh phương
Bắc, nhưng không được. Có người mách Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh,
Xuy Vưu sợ hăi chạy ra đất Trác Lộc. Đế Du Vơng cùng Hiên Viên giao binh ở
Phăn Tuyền, đánh ba trận đều bị thua, bị giáng phong ở đất Lạc
Ấp và chết ở đó. Ḍng họ Thần Nông tới đây th́ hết ...
(về sau) Âu Cơ cùng đàn con về Bắc, đến biên giới Hoàng Đế cho binh
ra giữ chặc cửa ải, mẹ con Âu Cơ không về được nên quay lại
nước Nam .
... (Lỉnh Nam Chích Quái)
Theo Trung Quốc Sử th́ căn cứ vào sử kư "Ngũ Đế Bản Kỷ" đến
cuối đời Thần Nông, Hoàng Đế và chư hầu (bộ lạc liên minh) cùng Xuy
Vưu đánh nhau ở Trác Lộc, giết Xuy Vưu. Sách "Đại Đới Lễ
Kư" viết, Hoàng Đế cùng Viêm Đế đánh nhau ở Bản Tuyền (Lỉnh Nam Chích
Quái ghi là Phăn Tuyền).
Xuy Vưu và Tam Miêu đều là hiệu của người Cửu Lê, mà Viêm Đế và
Tam Miêu cũng đều là họ Khương, c̣n Trác Lộc và Bản Tuyền cũng là một
vùng đất ... Tung tích hoạt động của Hoàng Đế chép trong sách cổ là 2 tỉnh
Sơn Tây và Hà Nam. Vào thời đó th́ các bộ lạc, bộ tộc, sử đều ghi
chép là chư hầu, nhưng thật tế mỗi chư hầu dân số chỉ vơn vẹn
như một thôn làng ngày nay.
Sử kư Tư Mă Thiên mượn lời Lư Tư nói : Ngũ Đế ngày xưa, đất
chỉ vuông ngàn dặm, phần c̣n lại là đất của chư hầu (bộ lạc
liên minh) và của Man Di (cư dân địa phương), họ có vào chầu hay không, thiên
tử cũng không sao cai quản được .
Theo sử liệu vừa nêu, Hiên Viên là người khởi xướng tổ chức liên
minh với 4 bộ lạc : Hổ, Báo, Hùng, Bi là dân du cư du mục vùng Tây Bắc, đến
xâm chiếm tỉnh Hà Nam dẫn đến cuộc kịch chiến với sắc tộc
dân bản địa ... Tộc trưởng Cửu Lê là Xuy Vưu (có sách chép là Si Vưu hoặc
Xi Vưu) là thần tướng của Viêm Đế quyết liệt chống cự ... Truyền
thuyết thuật lại rằng, lúc đầu Hiên Viên không thắng, có người chỉ
dạy lấy da thú làm trống để làm lệnh, nhờ đó mới thắng. Hiên Viên
giết Xuy Vưu tại Trác Lộc . Truyền thuyết mang ẩn ư, vào thời đó Hoa
Tộc mới bắt đầu có trống da thú, chưa có trống đồng. Trống
Đồng là sản phẩm của Bách Việt ... Tiếp liền theo là chiến
tranh với Viêm Đế Du Vỏng tại Phản Tuyền, Du Vỏng thua, bị Hiên Viên
giáng về Lạc Ấp. Du Vỏng chết ở đó. Họ Thần Nông đến đời
Du Vỏng kể như chấm dứt. Hiên Viên tức vị Hoàng Đế năm 2697 tCN .
Đây là Hoàng Đế đầu tiên của nước Tàu thời cổ .
Phân tích nghĩa chữ, Đế là xâm lăng, Hoàng là màu vàng. Sau
khi chiếm cư, người của bộ tộc Hửu Hùng tự xưng là Hoàng Nhơn,
là người có tóc vàng hoe đặc t́nh của dân Tây Bắc, phân biệt với Cửu Lê
dân địa phương là tộc dân tóc màu đen. V́ trùng hợp với thuyết về
Ngũ Hành của Dịch Lư, màu vàng là hành thổ thuộc trung cung, là chủ vị của
4 màu xanh, đỏ, trắng, đen . Dịch lư đă áp dụng trung cung dành cho bậc
Đế Vương, nên từ đó danh từ Hoàng tự nó có nghĩa là màu bậc Vương
Đế và gia tộc của họ th́ gọi là Hoàng Tộc .
Phản ứng của Viêm Tộc : Âu Cơ dẫn các con về đất Bắc
. Về tới biên giới Hà Nam, Hoàng Đế cho binh ra giử chặt cửa ải, mẹ
con Âu Cơ không về được nên quay lại nước Nam . Đoạn kể nầy
cho thấy từ phương Nam có cuộc tiếp cứu Viêm Đế do Âu Cơ xuất
lănh với 100 con (Bách Việt) nhưng không c̣n kịp nữa rồi ... phương Bắc
đă bị đổi chủ ! măi đến cuối đời Đế Chuyên Húc th́ có Thuật
Kế ḍng Thần Nông vùng lên tranh lại lănh địa nhưng tiếc thay lại không thành
.
Các đời vua kế tục sau Hoàng Đế th́ tước vị chữ Đế
th́ đổi ra trước như : Đế Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu,
Đế Thuấn đây là cách gọi cú pháp theo ngôn ngữ Việt ... do chứng cứ nầy
các vị học giả quả quyết rằng : Sau đời Hoàng Đế th́ văn
hóa nông nghiệp đă đồng hóa được văn hóa du mục, bởi
v́ phải nhờ vào các hiểu biết về kỷ thuật trồng trọt của
dân gian vào thời đó, gia thêm vào văn minh của Dịch lư, nên đă trọn vẹn
đồng hóa cả dân tộc Tây Bắc vào xâm cư .
Sách Kỳ Môn Độn Giáp Đại Toàn Thư có câu :
nghĩa là, ngày xưa Hoàng Đế đánh với Xuy Vưu tại Trác Lộc măi
cho đến nay vẫn chưa xong chiến trận ... lời bàn nầy đại
ư nói rằng, hai nền văn hóa du mục và nông nghiệp đan xen lẫn nhau và
đồng hóa lẫn nhau, vơ hiếp văn, văn chế vơ, măi đến nay vẫn
c̣n đang tiếp diễn bất phân thắng bại .
Thực tế mà nói th́ văn hóa du mục rất mạnh về vũ dũng, thắng
làm chủ thua làm tớ ... Văn hóa nông nghiệp th́ ưa chuộng sự hài ḥa cùng thiên nhiên,
phải biết sống theo thời tiết của mùa vụ, lâu dần mới biết quy
luật thời tiết nên bắt buộc phải thấu hiểu được thiên nhiên,
tất phải định cư rời rạc th́ mới kề cận được
với ruộng nương, với đặc tính nầy th́ không thích tổ chức liên minh,
tất phải yếu về vũ lực ... du mục chuộng vơ, nông nghiệp chuộng
văn, măi đến nay nguyên lư nầy vẫn không thay đổi .
Chứng minh cho luận cứ nầy, sử kư có kể, nước Tàu từ thời
cổ đến Trung Quốc đương đại ngày nay, đă trải qua nhiều
lần bị các tộc dân du mục Tây Bắc và miền Bắc xâm lăng :
-
Hoàng Đế Hiên Viên, hoa tộc (2679 tCN), cùng một số bộ lạc liên minh
gọi là chư hầu, chiếm cứ Hà Nam Và Sơn Tây lập thành triều đại Ngũ
Đế kéo dài 489 năm.
-
Nhà Tây Chu, gốc dân du mục Thiễm Tây (1134 tCN), thôn tính nhà Thương-Ân trị
v́ 324 năm.
-
Hung Nô, Khiết Đan (sau đổi là Liêu) và Kim (nguyên là tộc Nữ Chân miền
Bắc) xâm lăng nước Tàu vào thời nhà Tống (960-1279 sCN).
-
Nhà Nguyên, tức Mông Cổ thuộc Tây Bắc (1279-1368 sCN) chiếm lănh cả
nước Tàu sát nhập luôn vào Ngpại Mông trị v́ 89 năm.
-
Nhà Thanh, Măn Châu miền Bắc (1616-1911) xâm chiếm toàn bộ nước Tàu kể
cả ngoại Mông, và sát nhập chung vào Măn Châu trị v́ 295 năm.
Nhưng chung cuộc và tất yếu về sau, tộc dân bị trị đă đồng
hóa được tộc dân xâm lăng bằng văn hóa nông nghiệp với thuyết "Âm
Dương Dịch Lư" . Tất cả các tộc dân bản địa cùng tộc dân xâm lăng
kết thành hỗn chủng rồi hợp chủng, xây dựng một đất nước
đa chủng tộc cho ngày nay. Riêng Lạc Việt, kể từ ngày Hùng Vương lập
Quốc tại sông Hồng Bắc Việt vẫn giữ được tự chủ .
Với người Tàu th́ Hoàng Đế là thủy tổ Hoa tộc, là người
khai quốc Trung Hoa thời cổ. Nhưng đối với Viêm Việt th́ Hoàng Đế
là kẻ xâm lăng, giết Xuy Vưu tại Trác Lộc, bại Viêm Đế tại Phản
Tuyền, giáng Du Vỏng về Lạc Ấp, là kẻ chấm dứt họ Thần Nông nơi đất
Bắc.
Theo dẫn luận trên, có truyền
thuyết cho rằng tên hiệu Si Vưu thực ra là Quan Trung. Sau khi toàn thắng th́ Hiên Viên viết
lại , gia thêm chữ Sơn vào bên trên và c̣ng chân bên dưới, để đọc chữ
Trung thành chữ Si (ngốc), c̣n chữ Quang th́ viết bớt đi một nét th́ đọc
thành chữ Vưu (oán). Si Vưu là oán hờn si ngốc ... bởi từ
thuyết nầy, có người giă định rằng, Nhà Tây Sơn áo văi Nguyễn Huệ
lấy hiệu là Quan Trung để nhớ lại vị tổ xưa, đồng thời
lại cố t́nh lấy cờ hiệu Si Vưu nền đỏ ṿng tṛn vàng ở giữa,
làm cờ hiệu cho ḿnh để quyết thắng trận Đống Đa rữa được
hận xưa .
3.5 Tiếng gọi Đồng Bào
Khi có lời hiệu quốc dân, các nước trên thế giới kể cả Trung Quốc
đều không có tiếng gọi "Đồng Bào", duy nhất chỉ có Việt Nam
. Nghĩa đen, "Đồng" là cùng chung, "Bào" là bào thai. Tiền nhân chúng ta hết ḷng trân trọng
truyền thuyết mẹ Âu Cơ, dùng nội dung câu chuyện với nhiều ẩn nghĩa
để làm di ngôn truyền đạt lại các hệ kế thừa ...
nhờ thế, tuy tích truyện đă trăi qua nhiều ngàn năm mà 2 tiếng gọi
"Đồng Bào" vẫn không giảm đi tính chất thiên liêng đầy huyền
vi tộc hệ .
Truyện kể, Âu Cơ đẻ ra một bọc lớn cho là điềm bất tường
nên vứt ra cánh đồng, qua 7 ngày, bọc vỡ ra một trăm trứng, 100 trứng
nở ra 100 con trai ... Trăm người con trai đó chính là tổ
tiên Bách Việt vậy !
Đoạn huyền sử nầy có 5 cụm từ ẩn nghĩa, căn cứ vào từng
đoạn, từng câu, tất phần luận giăi phải hiển thị bằng được
cái "Chân" của huyền sử muốn truyền đạt lại những ǵ ?
- Âu Cơ đẻ ra một bọc lớn , theo khoa dân tộc học,
từ thưở hoang sơ loài người đă từng bước phát triển theo tổ
chức tự nhiên: Thị Tộc, Bộ Tộc, Bào Tộc, Bộ Lạc, Cộng Đồng
vùng, Cộng Đồng miền, Cộng Dồng xứ. Chủ vị của mỗi tổ
chức, măi cho đến thời có chữ viết th́ văn nhân sau nầy có danh từ tôn
vinh thành nhiều tên gọi như: Tù Trưởng, Nữ Hoàng, Vua, Chúa, Hoàng Đế, Vương,
Bá, Tước, Nam, Hầu ... Âu Cơ và Lạc Long Quân kế tục thời Tam Hoàng, đồng
thời với Ngũ Đế, theo tổ chức Thị Tộc Mẫu Hệ, huyết
thống tính theo họ mẹ. Thị tộc mẫu hệ tất phải phối hợp
với người không cùng huyết thống và như thế tiến dần thành Bào Tộc,
là một tổ chức của nhiều Thị Tộc cùng mang chung một vật Tổ, Thị
Tộc gốc là Thị Tộc Mẹ . Dựa theo khoa dân tộc học th́ Âu Cơ
đẻ ra một bộc lớn, nghĩa là Âu Cơ là Thị Tộc Gốc, là Thị Tộc
Mẹ, của một Bào Tộc vào thời đó .
- Vứt ra cánh đồng , Khảo cổ học đă xác định,
Dân cư vùng Đông Nam Á đă biết trồng cây, ngũ cốc, lúa, đă hơn 6000 năm.
Chứng cớ trồng lúa nước trước tiên trên thế giới ! dẫn giăi ẩn
nghĩa "Vứt ra cánh đồng" ... theo nghĩa hẹp là nghề nông, theo nghĩa
rộng là Đất, là Nước là điều kiện của trồng trọt cho sự
sống. Từ 2 chữ Đất Nước nầy mà sau nầy phát sinh thành Làng Nước,
Nhà Nước, ... Cái bọc lớn Âu Cơ vứt ra cánh đồng, được
cánh đồng chứa nhận và dưỡng nuôi, nhờ vào sinh khí nông nghiệp mà bào thai
mới dưỡng được 100 trứng (thuộc bậc sinh), nhờ tinh
khí của "cánh đồng" 100 trứng nở ra 100 con trai (thuộc bậc thành). Nội
dung nhằm tôn tạo 2 bậc sinh-thành cho một Bào Tộc, đồng lúc nói lên sự kết
tinh huyền diệu của ngành trồng lúa nước đối với con người.
Nhờ bởi công đức thần nông nầy mà Bào Tộc Bách Việt đă toàn vẹn
và xuyên suốt đến ngày nay .
- Qua 7 ngày , là ư nghĩa sự hoàn tất một chu tŕnh 7 cấp độ
hoàn thiện cho "Bào Tộc Bách Việt". Đối với dân gian con số 7 tương ứng
một tuần nhật, 7 hành tinh, 7 cấp độ ... xem chi tiết về lư giăi con số
7 nới chương V Thái Nhất. Tại mục nấy chỉ dẫn chứng một vài
biểu tượng huyền niệm về con số 7 mà dân tộc Việt cùng các tôn giáo lớn
đặc biệt tôn trọng như sau : truyền thống thờ cúng tổ tiên của người
Việt, tang lể người cho người chết thường phải cầu siêu cúng
kiến 7 thất. Mỗi thất bắt đầu vào ngày thứ 7 kể từ ngày hóa (chết)
tổng cộng là 7 x 7 = 49 ngày ... Theo Phật Giáo, Phật Thích Ca được sinh ra trong
bọc, bọc vở ra, Phật bước đi liền 7 bước. Sau tu thiền dưới
cội Bồ Đề 47 (7 x 7) ngày th́ đắc đạo, trong Kinh Phật c̣n rất nhiều ẩn
tích về con số 7 ... Theo Công Giáo, Đức Chúa Trời sáng tạo ra
thế giới trong ṿng 6 ngày, đến ngày thứ 7 th́ nghỉ ngơi nên gọi là ngày Chúa
Nhật (ngày của Chúa), trong Cựu Ước c̣n rất nhiều đỉn tích về con
số 7 ... Theo Hồi Giáo, khi hành hương về La Mecque th́ phải thực
hiện đủ 7 ṿng đi quanh Ka'Ba và 7 hành tŕnh đi giữa các núi Cafá và Marnia ...
- Bọc vỡ ra 100 trứng , trứng là danh từ biểu tượng
bắt đầu chu kỳ của một đợt "sinh" của một sự vật.
Số 100 là biểu tượng huyền vi, c̣n gọi là Bách. Nghĩa triết học của
100 trứng, th́ Dịch lư học có ghi đầy đủ chi tiết nơi Hà Đồ
và Lạc Thư ... Hà Đồ là một môn số học trong Dịch
lư để cụ thể hóa về sự sinh hóa của trời, bắt đầu
của mọi sự sống, trong Hà Đồ có 10 con số biểu thị bằng
2 chấm: Âm (màu đen) và Dương (màu trắng), 10 con số nầy gốm có từ 1 đến
10, chia ra nằm theo 5 chổ cố định trong h́nh vuông của Hà Đồ, phân
ra thành 4 phương (Đông, Tây, Nam, Bắc) và chính giữa gọi là Trung Cung. Cộng hết
lại các số từ 1 đến 10 của 5 chổ trên Hà Đồ, 1+2+3+4+5+6+7+8+9+10
= 55 ... Lạc Thư là môn số học của Dịch lư khẳng
định về sự nuôi dưỡng của đất bằng 9 con số gồm
từ 1 đến 9. chia ra nằm vào 4 phương (Đông, Tây, Nam, Bắc) của Lạc
Thư, khác với Hà Đồ, Lạc Thư không có Trung Cung. Cộng hết 9 con số
từ 1 đến 9 của Lạc Thư ta có 45 . Tổng số của Hà Đồ 55 và Lạc
Thư 45 là con số 100, c̣n gọi là Bách. Nên nghĩa triết của chữ Bách c̣n là lời
chúc tụng thụ hưởng được ân phước của Trời 55 và Đất
45. Phong tục Việt Nam từ ngàn xưa đă có câu chúc Tết và mừng thọ ông bà bằng
câu : "Bách niên giai lăo". Ngược lại đối tang chay th́ sau thất tuần 49 ngày th́
đến lể cúng (thiên địa) 100 ngày ... huyền diệu thay ! con
số 100, hay chữ Bách, nhất nhất đều từ nghĩa triết nầy mà thành
vậy.
- Vở ra 100 con trai , tại sao lại là con trai ? chúng ta phải trở về
khoa chiết tự để thông suốt ẩn nghĩa nầy. Chữ Nam th́
trên là chữ điền, dưới là chữ lực, chữ lực được
viết theo h́nh tượng của cái ŕu. Chữ nầy, Việt Nho và Hán tự cho đến
nay vẫn giử nguyên không thêm bớt, nói rơ ư : Nam tất phải làm ruộng bằng
sức lực với cái ŕu ... Chữ Việt là Tộc Việt, bên
trên là chữ điền ḷng vào bộ mễ (gạo) bên dưới là chữ tượng
h́nh lưỡi ŕu , ư nói : tộc Việt có đất trồng lúa nước (nghĩa
là có giang sơn riêng và cơm no áo ấm) ! Đến thời Hán th́ bị
gia thêm vào bên trái bộ tẫu (vượt) và bên phải là chữ múa ŕu theo như trống đồng
của Lạc Việt, nhằm để bôi xóa đi gốc tích quê cha đất
tổ, nên không c̣n mang đúng ư nghĩa của cha ông. Tiền nhân tộc
Việt cố ư dụng ẫn ngữ nơi danh từ "Con Trai" để biểu trưng
cho danh từ "Việt", 100 con trai là 100 Việt là sự kết tinh của bào tộc Bách Việt
vậy .
***
Tiếng gọi "Đồng Bào" là kim chỉ Nam đưa dựng dẫn lối
cho con cháu Việt tộc lần ṃ theo huyền vi tộc hệ về lại nguồn cội
theo những dấu vết như sau :
-
Thị tộc Âu Cơ là Thị Tộc gốc, là Thị Tộc Mẹ
-
Hấp thu tính chất nông nghiệp dưỡng nuôi nhờ thế phát triển
thành Bào Tộc.
-
Kinh qua 7 cấp độ siêu nhiên (qua 7 ngày), hoàn thiện từ cơ sinh
(trứng), chu tất đến lúc thành vụ (nở con).
-
Tiếp nhận đưọc đầy đủ nguyên khí của Trời (55)
và Đất (45) nên hiển thị bằng con số 100.
-
Chính ngay căn cơ nầy, mà "Bào Tộc Bách Việt" đưọc Mẹ Âu
Cơ hoàn thành.
"Đồng Bào"... 2 tiếng nói khơi động bao
nhiêu là t́nh ... t́nh ngựi, t́nh dân tộc, t́nh bào tộc, t́nh tộc hệ, ... mà tổ tiên
chúng ta ẩn dụ trong truyền thuyết "Âu Cơ Lạc Long Quân" mang âm vang rung động đi xuyên
suốt vào không thời gian thâm nhập vào ḍng máu dân Việt làm cho con cháu ta ngày nay khi nghe đến
2 tiếng gọi "Đồng Bào" tâm tư dâng trào xao xuyến một niềm cảm ứng
huyền diệu ... một dấu ấn thiêng liêng mà chỉ duy nhất dân tộc Việt mới
có !
Hỡi Đồng Bào ... khi nghe tiếng gọi nầy
chúng ta cảm thấy gần gủi với vô biên , cuốn hút vào lịch sử , trở về
với t́nh gia tộc, ông bà cha mẹ, anh em, t́nh họ hàng, t́nh lân cận của xóm
làng, bao nhiêu tổ tiên của chúng ta từ bao ngàn năm trưóc phút chốc h́nh như đang
hiện diện ở bên ta ... một sự ấm cúng thiêng liêng mà chỉ người
Việt của chúng ta mới giao ḥa quyện lẫn vào nhau kết hợp lại thành một
... cái một của một dân tộc bất biến và trường tồn qua mọi
bể dâu ... cái một của sự hoàn nhất ... một ḍng máu, một tâm tư
... chúng ta là ruột thịt với nhau .
Phải chăng khi xưa ... dân phương Nam trong cơn nguy kịch đă
cầu cứu Lạc Long Quân bằng sợi giây anh linh nầy ?
3.6 Vật Tổ Tiên Rồng
Mỗi một vật biểu đều có đặc tính riêng biệt, nhiều nước
đă chọn ngay tính chất đặc thù nầy làm biểu tượng cho dân tộc và
đất nước họ, sự tinh chọn nầy đă thành nét văn hoá truyền thống,
như:
* Vật biểu nước Pháp chọn "gà trống"(Gaulus) đặc trưng kiêu dũng
bất cứ đâu.
* Vật biểu nước Mỷ và Đức là "chim Đại Bàng" biểu tượng
chúc tể không gian.
* Vật biểu Ấn Độ là "voi" đặc trưng sức mạnh và đời
sống cộng đồng đầm ấm.
* Nước Tàu thời Hoàng Đế là "bạch hổ", thời nhà Chu trở đi mới
chọn vật biểu là "rồng".
Thông thường mỗi nước trên thế giới chỉ chọn một vật
biểu cho đất nước họ, đặc biệt và duy nhất chỉ có dân
tộc Việt chọn đến 2 vật biểu là, Tiên Rồng song hành,
và c̣n suy tôn vật biểu vượt lên thành vật Tổ, truyền thuyết
dẫn tích như sau :
Truyện kể : ... Hoàng Đế cho quân giữ chặc cửa
ải. mẹ con Âu Cơ không thể về phương bắc được, bèn quay trở
lại nước Nam. Long Quân từ thủy phủ trở về gặp lại Âu Cơ ở
đất Tương. Long Quân nói : Ta là ṇi rồng đứng đầu thủy
tộc, nàng là giống tiên sống ở trên đất, tuy nhờ khí âm dương
giao hợp mà sinh con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giống ḍng bất đồng,
khó mà ở với nhau lâu được, nay phải chia ly. Ta đem 50 con về thủy
phủ chia trị các xứ, 50 con theo nàng về ở trên đất, chia nước
ra mà trị. Lên núi xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên
...
Những cụm từ trên dẫn giải như sau :
- Đất Tương : Tương có nghĩa là cùng nhau, với nhau,
như nhau, tương thân, tương hội, tương ái ... nghĩa theo truyện là sự
tương hội, gặp lại, tái ngộ. Theo Địa Dư Chí, là tên của con
sông Tương thuộc tỉnh Hồ Nam Trung Quốc (vùng Động Đ́nh Hồ),
tục truyền khi vua Thuấn băng hà, hai người vợ của vua Thuấn là Nga Hoàng
và Nữ Anh ngồi bên sông Tương khóc chồng. Như vậy, tương c̣n có nghĩa
là tương tư, nhớ mong, quyến luyến ... Truyền thuyết có dung ư chỉ định
móc giới "Đất Nước" ở vùng Động Đ́nh Hồ thuộc sông Dương
Tử. Cho nên Hùng Vương thứ nhất khi lập nước Văn Lang cho tộc Việt
có ghi rơ, Động Đ́nh Hồ là ranh giới phía Bắc.
- Ta là ṇi Rồng, Nàng là giống Tiên : Thời Thượng Cổ, tộc
Việt ven biển là tiền thể của nước Ngô, nước Việt của thời
Xuân Thu Chiến Quốc (772tCN). Tộc Việt cắt tóc ngắn xâm ḿnh, sống lưu cư
từ Giang Tô đến Chiết Giang, nương theo gió mùa thuận gịng hải lưu t́m
kế sinh nhai dọc theo miền duyên hải từ Bắc xuống Nam ... Phương tiện
sinh hoạt của tộc Việt là dùng thuyền, h́nh giao long nằm ngửa, di chuyển
th́ chèo, dùng bườm, đến nơi nào có nhiều lương thực th́ tạm cư,
tâm ngụ ... Truyền thuyết có kể : Kinh Dương Vương về thủy phủ
"không trở lại nữa", Lạc Long Quân th́ thường ở thủy phủ, nhưng
đến khi có lời cầu cứu của con dân th́ mới trở về đất liền
... Thủy phủ có nghĩa là miền "nước", Rồng là chúa tể của những
nơi nào có nước, người thời nay gọi là thuồng luồng, cá xấu, giao
long, khủng long, ... nên Lạc Long Quân xác định : "Ta là ṇi Rồng, sống ở
miền nước" là từ gốc tích nầy . Âu Cơ là ái nữ của Đế
Lai thuộc Viêm Tộc họ Thần Nông, sinh quán vùng trung lưu sông Hoàng Hà thuộc miền
"đất" (núi). Viêm tộc đốt rừng phá rẩy để trồng lúa. Chữ
Việt Nho thời cổ viết 2 chữ hỏa ghép lại thành chữ Viêm, đến
ngày lể hội th́ cư dân miền đất thường dùng lông chim (vủ y) để
làm trang phục và mủ đội đầu. Thị tộc nghi mẫu được
bào tộc tôn vinh là Tiên nên dùng "Chim" làm biểu tượng, nên căn cứ vào sinh hoạt
và trang phục của Viêm tộc nên Lạc Long Quân đă nói : "Nàng là giống Tiên, sống ở
trên đất". Thật ra từ cổ chí kim, chưa ai gặp Tiên Rồng bao giờ,
thế nhưng ... trong kho tàng chuyện cổ thế giới hầu hết đều có chuyện
Tiên Rồng từ thời thượng cổ sử của loài người cả Đông
lẩn Tây như Kinh Thánh đă có đề cập đến, và Kinh Dịch cũng vậy.
Cái chung của Đông Tây là từ cái không có tiên rồng mà thành ra cái có tiên rồng, biểu
hiện được cái vô h́nh thành cái hữu h́nh, Đông và Tây cùng một mục đích
: hướng Thiện và răn đe tội ác ... Tây phương h́nh dung tiên nữ
hiện ra dưới dạng hải âu, thiên nga, bạch hạc, bạch câu ... hoặc là một
nàng kiều nữ, em bé với đôi cánh thiên nga ... tiên của phương tây là thiên thần,
thừa sai của Đức Chúa Trời, chuyên làm điều thiện. Cũng vậy,
phương Đông cũng cho tiên là người của thiên đ́nh, nhưng c̣n công nhận
là con người tu luyện điều thiện lâu năm th́ thành tiên. Tiên nữ
phương Đông thường hóa thân thành chim Loan, chim Phụng, di chuyễn lướt
trên mây, nhưng lại không có mang đôi cánh thiên nga (theo như phương Tây). Ngược
lại, con người tu luyện điều ác lâu năm th́ thành chằng tinh, yêu quái
... phương Tây cũng tương tự với quỷ Satan, phù thủy ... Rồng là con
vật hiển linh và biến hóa, tận mây xanh th́ là rồng bay (phi long), dưới
nước gọi là rồng nước (thủy long), trên mặt đất th́ là
Con Lân, trong hang động th́ lại là khủng long. H́nh tượng con rồng là, đầu
sừng nai, mắt lồi, mủi lỏ, hàm ngựa, râu quay bị, cổ vươn cao, thân óng,
lưng văy cá, bụng văy rắn, bốn chân thằng lằng, đuôi cá sấu, và toàn thân
con rồng dài đến hàng chục mét ... Người Tây phương
ấn tượng con rồng có 3 đầu hay 9 đầu thường là canh giử kho
báu, giết được nó th́ làm chủ kho tàng. Kitô giáo quan niệm rồng là đội
quân của Lucifer (satan) đối địch với đội quân thiên thần của Đức
Chúa Trời ... Người Đông phương quan niệm rồng là vật
tác phúc, tác động làm mưa như chuyện cổ tích "Cá Hóa Long" (xem cả chuyện nơi
chương X: Người Việt), đồng thời tôn vinh rồng là vật xuất chúng,
đầy quyền uy cái thế, nên tất cả các biểu thị của rồng đều
được bậc Vua Chúa đang trị v́ tranh thủ làm biểu tượng cho riêng ḿnh.
Ngoài ra tại các lễ hội và trong các cuộc vui lớn, dân gian phương Đông
tổ chức múa lân (múa rồng) thay lời chúc phúc cao cả nhất, mong cầu được
thăng thiên như rồng, nghĩa là, cuộc sống ngời tất thắng được
bản ngă nhờ vậy vượt trùm lên được mọi mâu thuẩn thuận nghịch
trên đời ...
- 50 con theo mẹ, 50 con theo cha ! theo dịch số con số 50 th́ căn
gốc từ con số 5 (5 x 10 = 50) là con số đại diện cho thuyết Ngũ Hành là
triết thuyết áp dụng cho lối sống trung ḥa của con Người (xem chương
VIII:Ngũ Hành). mang lại sự an tâm, sự b́nh an cho cuộc sống, thuyết nầy viết,
"An thổ đôn hồ nhân, cố nhân ái" nghĩa là, an sống tại cung thổ để
củng cố tính người th́ bền chặc được t́nh người .
Dân Việt tôn vinh "Tộc trưởng" là Thị Tộc, Thị Tộc Gốc, là "Tiên"
h́nh dung qua niềm tin các vị tu tiên trên núi cao, và Cha là "Rồng" với quyền năng
bay vượt và làm mưa, ban mầm sinh lực cho vạn vật và nhất là ruộng nương.
Tiên là vật biểu của miền "Đất" và Rồng là vật biểu của miền
"Nước", "Tiên Rồng" biểu tượng thành "Đất Nước" mà măi đến
ngày nay dân tộc vẫn tự hào với vật biểu "Tiên Rồng" cho một "Đất
Nước" kinh qua bao ngàn năm văn hiến (xem chương III: Nước) .
Theo Dịch Lư, đặc trưng ngôn từ "Vật Tổ Tiên Rồng" là tính năng hội
tựu đầy đủ âm dương song hành, hoàn thiện một chu tŕnh cả sinh
lẫn thành cho "Bào Tộc Bách Việt" (xem chương VI: Lưỡng Cực).
Nét đặc thù siêu nhiên nầy phát sinh từ sự không có Tiên không có Rồng
, mà văn hóa huyền sử toàn cầu lại khẳng định có Tiên
có Rồng , tự nó đă nói lên một triết lư nhân sinh cho thấy "cái Không ẩn tàng trong cái Có, và cái Có
phát xuất từ cái Không" dẫn lư nầy phải chăng
luôn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam chúng ta ngày nay .
3.7 Hùng Vương và Lạc Việt
Truyện kể : Âu cơ và năm mươi con về ở đất Phong Châu
(Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu
là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang.
Đông giáp Nam Hải, Tây giáp Ba Thục, Bắc giáp Động Đ́nh Hồ, và Nam đến
Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành).
Chia nước ra làm 15 bộ (c̣n gọi
là Quận) như sau : Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc
Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định,
Văn Lang, và Tượng Quận .
Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm Tướng Văn gọi
là Lạc Hầu, và Tướng Vơ gọi là Lạc Tướng.
Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ
Nương.
Trăm quan gọi là Hồ Chính, Thần Bộc. Nữ , lệ gọi là Xảo
Xứng (hay nô tỳ). Bề tôi gọi là hổn.
Đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo,
vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương không hề thay đổi
... "Trăm người con trai đó chính là tổ tiên Bách Việt
vậy".
Sử chép : Hùng Vương, con Lạc Long Quân không rơ tên húy, đóng đô ở Phong
Châu lấy quốc hiệu là Văn Lang. Địa giới (như đă kể ở trên),
chia nước ra làm 15 bộ, thời vua Nghiêu, Việt Thường có gởi tặng Con Qui
trên lưng có khắc chữ. Đời Hùng Vương thứ 6, Phù Đổng Thiên
Vương phá giặc Ân. Đời Thành Vương nhà Chu, Việt Thường có
gởi tặng Chim Trỉ. Đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán hiệu
là An Dương Vương thay Hùng Vương lập nên nhà Thục, An Dương
Vương đổi quốc hiệu lại thành Âu Lạc .
Khảo Cổ Học, theo LSQSVN/Tập I : Dấu tích khảo cổ học với
di chỉ văn hóa Phùng Nguyên từ thế kỷ thứ 14 tCN đến thế kỷ thứ
I sCN, đă chúng minh khá rơ Cội Nguồn tộc Việt tại vùng sông Hồng, sông
Mă, sông Lam .
Theo TDCCVHC/Gs Hà Văn Tấn : Thông qua khảo cổ th́ các di chỉ thuộc văn
hóa Phùng Nguyên khai quật được ở Vỉnh Phú, Hà Tây, Hà Bắc, Hà Nội, Hải
Pḥng, Tuyên Quang, được gọi là văn hóa tiền Đông Sơn, kết với văn
hóa Đông Sơn th́ hợp thành hệ thống văn hóa sông Hồng mà chủ nhân của nền
văn hóa nầy là Lạc Việt, Lạc Việt cũng là tổ tiên của người
Mường Việt hiện nay. Cơ bản văn hóa Đông Sơn thuộc khu vực Bắc
Bộ và Bắc-Trung-Bộ Việt Nam. Lạc Việt chẳng những là tổ tiên của tộc
Mường Việt, theo nhiều thư tịch củ của Trung Quốc có nói đến
Lạc Việt là tộc danh chính thức mà người ta được biết, người
Lạc Việt có ở Quăng Đông, Quăng Tây, Quí Châu, Hải Nam và cả vùng sông Hán nữa .
Căn cứ theo luận giăi trên, để có thêm lư chứng, chúng ta nên khảo cứu thêm 4
tiểu mục như sau : 1. Niên Đại Hùng Vương ? 2. Quốc hiệu Văn Lang ?
3. Chia nước ra thành 15 bộ ? 4. Phù Đổng Thiên Vương ?
- Niên Đại Hùng Vương
Vào thời thượng cổ sử, từ Hồng Bàng thị đến Âu Cơ Lạc
Long Quân và 18 đời Hùng Vương, dẩn tích Lạc Việt là một chi tộc của
Bách Việt, của Viêm Tộc, Miêu Tộc Cửu Lê. Khoa khảo cổ học cũng chứng
minh từ 7000 năm tCN đă có người sinh sống trên sông Hồng, sông Mă, sông Lam,
Bắc Việt, đă có cư dân bản địa, với văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đông
Sơn. Niên đại thời cổ sử của đất nước tộc Việt trước
Công Nguyên như sau :
Năm 2876 tCN : Họ Hồng Bàng, Kinh Dương Vương, Âu Cơ Lạc Long Quân.
Năm 2809 tCN : Hùng Vương thứ I , quốc hiệu Văn Lang.
Năm 258 tCN : Hùng Vương thứ XVIII.
Năm 257 tCN : An Dương Vương thay Hùng Vương, quốc hiệu Âu Lạc.
Năm 207 tCN : Triệu Đà chiếm Âu Lạc, quốc hiệu Nam Việt
Năm 111 tCN : Hậu duệ Triệu Đà thần phục nhà Hán, nước Việt bị
Bắc thuộc hơn 1000 năm kể từ đây.
Vào thời Tần Hán, kế sách Hán hóa đă là quốc nạn của
tộc Việt, những ǵ là tàng tích, kinh điển, văn hóa, văn chương của
tộc Việt đều bị quân xâm lăng nhà Tần, và quam cai trị nhà Hán cướp
sạch, phá sạch, đốt sạch, ai tàng trữ hay cất dấu đều bị tội
chém đầu. Mă Viện tịch thu hàng núi trống đồng đem về Vân Nam chỉ
để đúc ngựa. Bắt dân Việt học chữ Hán suốt hơn 1000 năm nhằm
mục đích Hán hóa cho nên người Việt đối kháng Trung Quốc bắt nguồn
từ thời nầy.
Để đối phó lại quốc nạn, văn ngôn truyền miệng được
người Việt phổ biến rộng dưới nhiều dạng, thần thoại,
truyền kỳ, điển tích, sự tích, cổ tích, ... măi đến khi giành lại độc
lập mới dược ghi chép lại trong Việt Điện U Linh và Lĩnh Nam Chích Quái.
Trong thời Hùng Vương có rất nhiều chuyện di ngôn di huấn, điển h́nh là
truyện Lang Liêu : "Bánh Dầy Bánh Chưng", đă luôn là biểu tượng tại các kỳ
"Lể Hội và Giổ Tổ Hùng Vương", ư nghĩa của truyện như sau :
Bánh Dầy biểu tượng "Trời sinh" (Bánh làm bằng bột nếp, h́nh tṛn như
bầu trời). Bánh Chưng biểu tượng "Đất dưỡng" (Bánh làm bằng
bột nếp, nhân đậu xanh, bánh h́nh vuông tượng đất). Tạo thành phẫm
vật phải có "Nhân ḥa" (con người tiếp nối ḥa hợp thành thức ăn). Tổng
hợp "Thiên sinh, Địa dưỡng, Nhân ḥa" là thuyết Tam Tài "Thiên Địa Nhân" của
Âm Dương Dịch Lư. Dân Việt ḿnh hay dùng lời chúc lành "Mẹ tṛn Con vuông"
là từ lư nghĩa nầy mà ra.
Truyền thống Lể Hội Giổ Tổ Hùng Vương vào ngày mùng 10 tháng 3 Âm Lịch
hằng năm thường tổ chức ngay trên địa danh xưa Vua Hùng đă thiết
lập kinh đô, nay thuộc xă Hy Cương, Huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú.
Theo ĐH&LHĐH/Vũ Ngọc Khánh , Nói đến Đền Hùng là nói đến
cả Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng, Đền Giếng, Chùa
Thiên Quang, Lăng Vua Hùng, tất cả đều quây quần trên núi Ngũ Lỉnh. Truyền
thuyết nói tại Đền Hạ, Bà Âu Cơ sinh ra "bọc trăm trứng" nở ra "trăm
con trai". Đền Trung ngang sườn núi Ngũ Lỉnh lá nơi Lang Liêu dâng "Bánh Dầy Bánh
Chưng" lên vua cha vào ngày Tết. Đền Thượng là nơi Vua Hùng thứ VI lập đền
thờ Thánh Gióng sau khi phá giặc Ân. Nằm bên phải Đền Hạ là Chùa Thiên Quang, bên
trái Đền Hạ là Đền Giếng là nơi hai nàng Công Chúa Tiên Dung và Ngọc
Hoa soi bóng xuống mặt nước, giếng sâu độ 3 mét, nước rất trong,
quanh năm không bao giờ cạn.
Theo ĐH&LHĐH/Mai Trang, Vĩnh Phú là đất tổ Hùng Vương, thời
nhà Lê ngoài đền chính người ta đă thống kê được 944 điểm thờ
Vua Hùng : Hưng Hóa 158 điểm, Kinh Bắc 158 điểm, Hải Dương
112 điểm, Thanh Hóa 261 điểm, Sơn Nam 231 điểm, Nghệ An 70 điểm,
và hiện nay tại Tp Hồ Chí Minh, Bà Rịa, Vũng Tàu, Nha Trang, Lâm Đồng, Tiền
Giang đă có thêm một số đền thờ Vua Hùng .
Lể Hội Đền Hùng là cuộc hành hương t́m về lại Cội Nguồn
dân tộc Việt .
2. Quốc hiệu Văn Lang
Kể từ ngày lập quốc nước ta có 11 danh hiệu :
- Xích Quỷ, đời Kinh Dương Vương, Âu cơ-Lạc Long Quân (2876 tCN).
- Văn Lang, đời Hùng Vương (2809 tCN).
- Âu Lạc, đời An Dương Vương (257 tCN).
- Nam Việt, đời Triệu Đà (207 tCN).
- Giao Chỉ, thời Hán thuộc (111 tCN).
- An Nam Đô Hộ Phủ, đời nhà Đường Trung Quốc.
- Đại Cồ Việt, đời nhà Đinh, Nhà Lê.
- Đại Việt, đời nhà Lư.
- An Nam Quốc, đời nhà Tống Trung Quốc công nhận.
- Việt Nam, đời nhà Nguyễn Gia Long.
- Đại Nam, đời nhà Nguyễn Minh Mạng.
- Việt Nam, kể từ thời độc lập 1945 đến nay.
Trong 11 danh hiệu nầy chỉ có 5 danh hiệu ban đầu là quan trọng hơn cả,
v́ thuộc huyền sử, đó là : Xích Quỷ, Văn Lang, Âu Lạc, Nam Việt và Giao Chỉ.
- Xích Quỉ , chữ "Quỉ" có nghĩa lớn lao
hay đi với chữ Chủ, dùng chỉ người có quyền thế lớn. Nơi
miềnThục Ba (Tứ Xuyên) có danh từ "Đô quỉ chủ" là vị nguyên soái thống
lănh một đạo quân, và "Thiên quỉ chủ" là người đứng đầu 1000
nhà. Chữ "Xích" là màu đỏ của lửa, là mùa Hạ, là phương Nam, là vùng xích đạo.
Theo "Dịch lư" phương Nam tượng quẻ ly là lửa của mặt trời, trong
thuyết Ngũ Hành th́ phương Nam là hành hỏa. Quẻ Ly biểu tượng ánh sáng
văn minh, hành hỏa biểu tượng cho sự phát triển của văn minh. Ngôn từ
"Xích Quỉ" nghĩa chính xác là "Người Chủ lớn ở một phương Nam văn
minh". Từ lư nghĩa nầy, Văn Miếu, Đền Vua, Lăng Tẫm, Minh Đường,
Từ Đường, Nhà trưởng thượng của Họ Tộc đều chọn
hướng dựa lưng vào Bắc, ngước mặt hướng vọng vế Nam. "Hướng
mặt về Nam có nghĩa mong cầu tiếp cận nền văn minh lửa" (theo VLTN/Gs
Kim Định).
- Văn Lang, Văn Lang là nước có chủ
đích lấy văn hóa làm nền, từ chủ kiến nầy mà đời đời dân
tộc Việt vẫn tụ hào "Văn Hiến chi bang", hay "Bốn ngàn năm văn hiến".
Văn hiến có nghĩa là bao gồm cả 5 bộ môn về văn như sau: 1.Văn Thân: là nét vẻ, khắc họa, bất kỳ trên
nền ǵ. 2.Văn Học: các môn học về văn
chương, văn nhân. 3.Văn Công: lề nhạc,
ngũ âm. 4.Văn Đức: căm nghiệm chất văn
đă thẫm thấu hiển lộ trong con người. 5.Văn
Tổ: Văn Đạo từ tổ tiên được tiếp nhận
và hoàn thiện cho toàn thể đất nước. /// Kề từ
Hùng vương thứ Nhất (2809tCN) đến Hùng Vương thứ 18 (258tCN) th́
quốc hiệu Văn Lang xuyên suốt hơn 25 thế kỷ, một quốc hiệu lâu đời
nhất, lưu lại cho đời sau một nền văn hóa đặc trưng,
thế hệ ngày nay luôn thừa tự và tiếp tục thừa trọng.
- Âu Lạc, Âu là tộc Tây Âu c̣n có tên là Âu Việt
ở miền Thục Ba (nay Tứ Xuyên, TQ). Lạc là tộc Lạc Việt từ thời
nguyên sơ đă có mặt khắp vùng Dương Tử giang, duyên hải và phương Nam.
Kỷ Hồng Bàng thị đă ấn dịnh ranh giới Tây giáp Ba Thục. Vào thời Xuân
Thu, Chiến Quốc (772tCN), Thục Chế Âu Việt (tổ tiên của Thục Phán) bị
nhà Tần thôn tính, phải di tản dần từ Tứ Xuyên đến Quí Châu, dần xuống
Vân Nam. Đến thời Thục Phán th́ thâm nhập vào vùng biên giới Bắc Việt ngày
nay, chung sống với tộc Lạc Việt Hùng Vương (theo ĐNVNQCĐ, Đào
Duy Anh). Sau khi thắng Hùng Vương thứ 18, Thục Phán lập nên Kỷ Nhà Thục
(257-208tCN), tự xưng là An Dương Vương lập quốc hiệu thành Âu Lạc
(ghép Âu việt và Lạc việt, ĐVSKTT). Sau khi gồm thâu lục quốc, nhà Tần phái
tướng Đồ Thư thống lỉnh 50 vạn quân quyết chiếm Lỉnh Nam (214tCN),
người Việt trốn hết vào rừng chờ đợi thời cơ. Quân Tần
bị nhiễm chướng khí và bệnh dịch tă, quân Việt tổ chức tập kích chém
tướng Đồ Thư cùng với vài vạn quân. Tướng Nhâm Ngao lên thay, phong Triệu
Đà làm phó tướng, kéo tàn quân lui về Lưỡng Quăng, đóng đô tại Phiên Ngung
và sai sứ giản ḥa với Thục Phán ... Có ư kiến, Âu Lạc ở
Bắc Việt là vào đời Tần Hán (221tCN) c̣n trước đó 3 thế kỷ vào thời
Xuân Thu (772 tCN) th́ Âu Lạc là cư dân bản địa của vùng Giang Tây và Chiết Giang.
Nếu lùi về trước ít ngàn năm vào thời Tam Hoàng 5000 tCN) th́ Âu Lạc là cư dân
miền Kiến An trăi rộng lên đến tận phía Bắc sông Lạc. Ư kiến nầy
dẩn chứng và xác minh tên các địa phương của miền Bắc Trung Quốc
ngày nay lại trùng tên với tên địa phương tại miền Bắc Việt Nam ngày
nay như: Hà Nội, Sơn Tây, Kiến An, Gia Định ... (theo VLTN, Kim Định).
- Nam Việt, Theo thuyết Ngũ Hành th́ phương
Nam thuộc hành Hỏa. Theo Kinh Dịch th́ phương Nam thuộc quẻ Ly, hỏa và Ly đều
tượng trưng cho ánh sáng, sự văn minh, chứng cứ bằng văn hóa nông nghiệp
trồng lúa nước. Việt là vương lên, vượt cao. Bao trùm cả phương
Nam là nơi sinh sống của Bào Tộc Bách Việt. Quốc hiệu Nam Việt là giử
vững được sự tự chủ, th́ ư tất nói nhà Hán là thành phần xâm cư từ
phương Bắc, bởi đó mà Hán Cao Tổ đă mềm mỏng tương lượng
với Triệu Đà, chỉ nên xưng Vương chứ đừng xưng Đế
... Diển tiến h́nh thành Nam Việt của Triệu Đà như sau: Năm
210 tCN, Triệu Đà cho con là Trọng Thủy sang Thục làm rể, kết duyên cùng Mỵ
Châu con gái Thục Phán. Sau khi nắm được mọi bí mật quân cơ th́ Trọng Thủy
trốn về Bắc. Vào năm 207 tCN, nhà Tấn mất, nhà Hán thay, Nhâm Ngao chết bệnh,
Triệu Đà lên nắm binh quyền không phục nhà Hán. Từ Nam Hải, Triệu Đà tiến
chiếm Quế Lâm, Tượng Quận và Âu Lạc (xem thêm phụ lục Thiên T́nh Sử Trọng
Thủy Mỵ Châu). Thục Phán thua, mang cả vợ con và tùy tướng chạy về phía
Nam, Triệu Đà và Trọng Thủy truy đuổi, Trọng Thủy bị tên bắn chết
tại Hoàng giang. Thục Phán giết con là Mỵ Châu tại Biện Sơn (nay Trịnh Gia,
Thanh Hóa). Thuyền của Thục Vương bị bảo nhận ch́m, xác trôi về Diển
Châu, Nghệ An, dân làng nhặt xác chôn và lập đền thờ có tên là "Đền Con Công"
(không rỏ trong đấy có xác của Thục Vương hay không? Theo NDLS, Hoài Việt).
Năm 207 tCN, Triệu Đà tức vị xưng vương đặt tên nước là Nam
Việt, đô tại Phiên Ngung. Triệu Đà mất năm 137 tCN, đến năm 113tCN
hậu duệ Triệu Đà là Triệu Ai Vương nghe lời mẹ Cù thị dâng Nam Việt
tùng phục nhà Hán. Thứ tướng Lữ Gia ngăn cản, truất Triệu Ai Vương,
đưa Triệu Dương Vương lên thay, chưa đầy 1 năm th́ nhà Hán sai Lộ
Bách Đức tiến quân vào chiếm trọn Nam Việt vào năm 111 tCN.
- Giao Chỉ, sau khi sát nhập Nam Việt vào Trung Quốc,
nhà Tây Hán chia Nam Việt ra làm 9 quận, địa phận Âu Việt trước đây (Bắc
Việt ngày nay) th́ nhà Hán đặt làm 3 quận là, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Riêng
danh từ Giao Chỉ th́ các sử gia Tàu và Ta diển nghĩa khác ư như sau : Giao,
là giao nhau, giao thoa, giao hội. Chỉ, là nơi tột cùng phải dừng lại.
Sử gia Việt nói, nơi tột cùng cao là "chỉ trời", nơi tột thấp là "chỉ
đất", chỉ trời và chỉ đất giao hội với con người thành "Nhân
Ḥa", nên gọi là Giao Chỉ, đất nước là Văn Lang, văn hiến chi bang tất
chỉ giao hội phải tại phương Nam, nên từ lư nghĩa nầy từ xưa
đă có tế lễ gọi là "Lễ Nam Giao" ... Các cụ xưa đă trừng
lư như sau: Sách Đại Học (Tứ Thư) có câu "Chỉ ư chí thiện", cái cùng cực
của Đạo là sự chí thiện. Kinh Thư (cổ sử) có câu "Khâm quyết sủ",
hăy thành kính mà kết định mọi phán xét sau cùng. Theo tập tục dân Việt, các bậc
Đế Vương, Vua, Chúa phải đích thân chủ vĩ tế lễ "Nam Giao" hằng
năm, là khấn nguyện "Chỉ Trời" và "Chỉ Đất" giao ḥa vào con người
của "Thiên Tử", có như vậy th́ mới hội nhập được đầy đủ
tài năng mang lại Quốc Thái Dân An ... Các quan phong kiến Tàu khi cai trị
nước Việt qua các đời Tần, Hán, Đường, Tống, Minh, ... để
được ḷng triều đ́nh đă giải nghĩa Giao Chỉ là: Nước có dân với
cách đứng bằng 2 bàn chân song song với 2 ngón chân cái giao vào nhau. Hoặc là, nước
có nhiều giao long cá xấu. Các dịch giả phương Tây lại cứ vào dịch sát
nghĩa, để rồi một số học giả sau nầy của ta lại rập
khuông trích dẩn theo Tây nên tội nghiệp cho con cháu hậu thế
đă có nhiều người lầm tin !!!
3.7.4 Truyện Phù Đổng Thiên Vương
Truyện Lỉnh Nam Chích Quái viết:
Đời Hùng Vương thứ 6, nhà Thương Ân ở phía Bắc tràn quân
qua biên giới gây thăm họa khắp nơi. Hùng Vương nhớ lời dặn của Lạc
Long Quân, sai sứ đi t́m bậc tài giỏi ra đánh giặc cứu nước. Bấy
giờ ở làng Phù Đổng, bộ Vủ Ninh, có một người đàn bà đă ngoài
60 tuổi, cách đó vài năm, một hôm ra đồng thấy một vết chân người
rất to, lấy làm lạ bèn ướm thử chân ḿnh vào, khi ấy bổn nhiên bà thấy
xúc động cả người, về đến nhà biết ḿnh đă thụ thai, sinh ra
một đứa con trai vào ngày mùng 7 tháng Giêng, bà đặt tên nó là Gióng. Đă lên 3 tuổi
rồi mà Gióng vẫn không biết lật mà cũng không biết nói .
Đến ngày sứ giả của vua Hùng Vương đi qua làng rao t́m người
tài giỏi ra đánh giặc th́ Gióng hốt nhiên ngồi bật dậy bảo mẹ mời
sứ giả đến. Bà mẹ rất đổi ngạc nhiên, nên nghe theo lời con.
Gióng bảo với sứ giả mau về xin vua đúc cho một con ngựa cao 18 thước,
một thanh gươm dài 7 thước, roi sắt và mủ sắt để đi đuổi
giặc .
Hùng Vương nhớ lời tiên tri của Lạc Long Quân, sai đúc ngựa
và gươm cho đứa trẻ dị thường. Khi nhà vua đưa đủ các vật
đến nhà th́ Gióng đứng lên vươn vai thành người to lớn khác thường, xin
mẹ dọn cơm cho ăn và xin áo mặc. Mấy nồi cơm bà mẹ liền tay nấu
ra cũng không no bụng Gióng, xóm làng phải góp gạo, giết gà, mổ lợn dọn ra
cho Gióng ăn, phải ăn đến 7 mâm cơm 5 mâm cà mới đủ no. Quần áo th́
nhiều vải của xóm làng góp lại may mới vứa tầm thước của Gióng
.
Rồi Gióng đội nón, cầm gươm, nhẩy lên ngựa thúc chạy.
Tự nhiên ngựa đúc thét ra lửa, phi như gió bảo, cuồn cuộn như sấm
sét chớp mắt đă ra chiến trường. Giặc Ân trông thấy kinh hăi t́m đường
bỏ chạy, bị ngựa đúc phun cháy, bị gươm Gióng chém đứt ĺa, thây chất
ngổn ngang. Đang lúc một ḿnh một ngựa chém giặc, thanh gươm độc nhất
bổn nhiên găy ngang, Gióng với tay nhổ luôn cả bụi tre bên đường mà quật
vào đầu quân giặc đang tán loạn hàng ngũ. Đánh tan giặc xong Gióng phi ngụa
chạy lên ngọn núi Sóc, cởi quần áo bỏ lại, rồi cả người lẫn
ngựa đều bay lên trời, hôm đó là ngày mùng 9 tháng 4 .
Tục truyền, các ao hồ ở trong vùng từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến
Sóc Sơn đều là dấu vết chân ngựa của Thánh Gióng để lại. Khu rừng
giặc bị lữa do ngựa phun đốt, ngày nay vẫn c̣n mang tên là làng Cháy. C̣n vết
chân ngựa xem giống như vết nứt ở miệng núi lửa đă nguội.
Nhớ công ơn Thánh Gióng thần dân Việt tôn thờ là Phù Đổng Thiên Vương,
lập miếu thờ ở nhà củ trong làng. Sau, Lư Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần
Vương, lập Miếu tại làng Phù Đổng, tạc tượng ở núi
Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lể .
Trên trang đầu lịch sử của các quốc gia trên thế giới đều có
truyện thần thoại, hoặc huyền vi hóa gốc tích dân tộc ḿnh, xứ sở ḿnh,
hoặc thần linh hóa các anh hùng dựng nước thời nguyên sơ. Truyện thần
thoại Thánh Gióng của tộc Việt cũng tựa như thần thoại truyền thống
chung của nhân loại, nhưng phần đặc trưng chống ngoại xâm giử nước
của tộc Việt ẩn dụ nơi truyền thuyết bằng những ẩn từ
như: Đứa bé trai, 3 tuổi, tên Gióng, làng Phù Đổng, ngựa sắt phun lửa,
tre làng, phá xong giặc Ân, núi Sóc Sơn, Thánh Gióng bay về trời, là đặc biệt
hơn cả .
Phần lư giăi các số như 3, 7, 1, 18, 5, 9, 4 ẩn hiện trong truyện như: 3
tuổi, mùng 7 tháng 1, ngựa cao 18 thước, gươm
dài 7 thước, 7 mâm cơm, 5 mâm cà, lên núi Sóc ngày mùng
1, về trời ngày mùng 9 tháng 4 xin xem phần khảo
luận nơi chương V: Thái Nhất, tại mục nầy chúng ta sẽ tham luận chuyên
chú vào 3 ẩn nghĩa sau:
- Bé trai lên 3 tên là Gióng, Trai là chữ Nam, chữ Việt Nho và Hán Nho đều cùng một
cách viết: trên là chữ điền dưới là chữ lực, lực là sức mạnh,
sức lực, tượng bằng lưởi ŕu. Ŕu là biểu tượng của tộc
Việt. Số 3 là số của Tam Tài tập hợp 3 yếu tố: Thiên thời, Địa
lợi, Nhân ḥa là 3 yếu tố cần yếu cho việc "b́nh thiên hạ", "an bang tế thế",
giử nước chống ngoại xâm. Tên Gióng mang ư nghĩa, khua động sôi nổi, như
gióng trống, gióng chiêng, tục ngữ "trống gióng ba chiêng gióng sáu" . Ẩn nghĩa
cả câu là lời động viên khích động tinh thần giử nước chống
ngoại xâm .
- Làng Phù Đổng, làng là bang, là một bang bé nhỏ của thị tộc xưa.
Phù là pḥ trợ, đổng là đốc sức, thí dụ, Đổng chế là chức quan
lớn bên vơ của thời phong kiến. Cả cụm từ "Làng Phù Đổng" được
hành văn nối liền theo tên Thánh Gióng, là gợi lên hoạt động "gióng lên khích động,
phù trợ, đốc sức, giử làng, giử nước, giử vửng tự chủ"
.
- Ngựa đúc phun lửa và nhổ tre làng, phá giặc Ân xong Thánh Gióng lên núi Sóc, bay về
trời, ... Lửa là sinh khí của phương Nam, thuộc hành Hỏa, cung Ly của Ngũ
Hành. Tre làng làm bờ lủy canh pḥng làng nước của thời xưa nhưng măi đến
nay vẫn c̣n. Tre là tượng trưng cho người quân tử, tượng trưng cho
sự "chính tâm, thành ư". Ư tất nói phải điều hợp tâm trí cho anh minh sáng
suốt (như lửa) một cách chí thành (như bậc quân tử) tất
chống được ngoại xâm.
Ai ơi mùng 9 tháng 4, không đi Hội Gióng cũng hư
một đời
Măi đến nay, hằng năm vào ngày mùng 9 tháng 4, tại làng Gióng, xả Phù Đổng,
huyện Gia Lâm, Hà Nội, đều tổ chức lể hội tại đền Thánh Gióng
xây dựng từ đời nhà Lư. Lể hội có đầy đủ nghi thức, có hoạt
cảnh biểu tượng Thánh Gióng phá giặc Ân.
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giổ Tổ mùng mười tháng ba.
Vào ngày mùng 10 tháng 3 hằng năm, lể hội đền Hùng hành lể tại
đền Thượng, tại đây cũng có đền thờ Thánh Gióng, tục truyền,
do Hùng Vương thứ 6 thiết lập để giử vửng t́nh làng nghĩa nước
cho tộc Việt.
Phần Kết Chương I
Tiếng gọi "Đồng Bào" dân gian nhận thức bằng ư niệm truyền
thống, học giả sử gia, bởi nhiều gốc cạnh mà tầm nh́n khác nhau nên
sự nhận thức không thống nhất. Nhóm hoài cổ th́ tin tưởng vào cái chân của
truyền thuyết "Mẹ Âu Cơ, Cha Lạc Long Quân", tôn kính gốc tích tổ tiên Việt.
Nhóm tân học th́ có ư kiến bài bác, cho là không đủ chứng cứ khoa học, triều
đại Tần Hán là thời chủ động xóa bỏ văn hóa "Bách Việt", tự
viết lại lịch sử theo ư riêng một cách lệch lạc, lố bịch, nhưng
chứng cứ của thời nầy lưu truyền lại, hậu thế có người
hồ đồ hấp tấp bám vào mang ra dẩn cứ kinh sách của Tần Hán, biên soạn
công phu để bênh vực thiển ư chủ quan của ḿnh, thật tiếc lắm thay
...
Theo Gs Kim Định trong Việt Lư Tố Nguyên viết, nhà triết học
Tây phương Nietzsche người Đức đă nói : "Chỉ việc dở lại những
trang đầu lịch sử của các dân tộc, tất cả đều có thần thoại.
Thần thoại là những cḥm sao làm nên bầu trời văn hóa cho nhân loại". Đối
với lời b́nh phẫm về truyền thuyết "Bào Tộc Bách Việt", Gs Kim Định
viết: "Phái cổ th́ quá cổ, cứ t́nh căm măi mà không khẳng định. C̣n phái mới
th́ quá khích, cắt bỏ bớt hoặc chối tuột hết. Thật tế, cứ nơi
chân lư dân tộc Việt, th́ truyền thuyết huyền thoại là thật,
cái thật rất lớn lao, không thể đánh giá bằng luận cứ
khoa học, tỷ như truyện thần linh và thần kỳ của các tôn giáo vậy".
Cái thật lớn lao của tiếng gọi "Đồng Bào" là truyền thuyết
"Bọc Trăm Trứng", trăm trứng nở ra trăm con trai, trăm con trai trưởng
thành là "Bào Tộc Bách Việt".
-
Bách Việt là CỘI
-
Hùng Vương Lạc Việt là RỂ CÁI
-
Mẹ Âu Cơ Cha Lạc Long Quân là NGUỒN nước ngầm
-
Văn hóa Việt cổ là những "giọt nước mưa"
-
Tinh anh, tinh chất tạo nên những giọt nước mưa là "Việt
Nho Nguyên Thủy" là CHÍNH NGUỒN
Thật tế th́, "Mạch nước ngầm không ngừng chăy ...
Rễ cái chạm mạch nước ngầm
Những tay nấm sau cơn mưa
Định luật tự nhiên phải vậy
Tư mă Thiên, sử gia tên tuổi nhà Hán (206tCN) trong sử kư của ông có ghi
từ "Bách Việt" chỉ các tộc dân phương Đông và phương Nam của Trung
Bang. Trước nữa, Kinh Thư (2678tCN) có ghi từ Tam Miêu, từ Nam Giao để chỉ
định các sắc dân bản địa Hoa Bắc (sông Hà sông Lạc) bị Hoa Tộc xâm
cư buộc phải di tản, Hoa Tộc gán tên gọi là Đông Di cho dân cư miền duyên
hải, c̣n cư dân ở phương Nam th́ gọi là Nam Man. Trong Ngũ Đế Bản Kỷ
có chép từ Viêm Đế và Cữu Lê là lực đối kháng đối nghịch với
Hoa Tộc thời cổ. Đây là cái thật của các từ gọi các sắc dân thời
cổ sử .
Thời Xuân Thu (772tCN), nước Sở tự xưng là người Kinh Man
từ chối không nhận sắc phong vương của nhà Chu. Thời Trang Vương nhà
Chu có nhận Chim Bạch Trỉ của nước Việt Thường thuộc phương
Nam mang tặng. Thời Chiến Quốc (481tCN), Sở diệt Việt (333tCN), Tần diệt
Sở (221tCN), và Hán thay Tần (206tCN). Đây là những chứng cứ thật, Bào Tộc
Bách Việt đă lập quốc ở Hoa Nam và Hoa Hạ trước thời Tần Hán .
Theo ông Phan Khoang trong Trung Quốc Sử Lược, thời Tam Đại
nhà Hạ, vua Vũ (2205tCN) hội chư hầu ở Đồ Sơn có đến 10
000 bộ lạc. Đến đời Thương Ân (1783tCN) hội chư hầu đánh
Trụ Vương th́ c̣n 800 bộ tộc. Thời Xuân Thu (772tCN) c̣n 140 bang. Thời Chiến
Quốc (403tCN) c̣n 7 quốc. Đến nhà Tần (221tCN) th́ nhất thống thành 1. Đây
là cái thật, của nhiều sắc tộc trưởng thành của thời khuyết sử
.
Tiếng gọi Đồng là lời kêu gọi t́nh anh em ruột thịt cùng
chung một bào thai, gợi lên t́nh Thị Tộc, Bào Tộc, vượt cao thành tính dân tộc
có t́nh người thương yêu nhau như ruột thịt. Đặc trưng tiếng gọi
"Đồng Bào" thay lời hiệu triệu quốc dân chỉ riêng của tộc Việt
măi măi âm vang, nhờ điển tích Âu Cơ Lạc Long Quân tiềm ẩn một "Ấn
Tính Người" mà cả nhân thế chưa từng có một danh từ triều mến
tương xứng diển đạt được vậy .
Lănh địa nhà Tần thống nhất (221tCN) trải rộng đến
vùng Lưỡng Quăng, phía Bắc Việt ngày nay (khi ấy Việt Nam là nhà Thục, vẫn
c̣n giử được tự chủ). Nhà Tần ban hành bạo lệnh "thống
nhất chữ viết", đốt sách, chôn nho, đày sĩ phu đi xây Vạn
Lư Trường Thành. Các kinh sách cổ như, Tam Phần, Ngũ Điển, Bát Sách, Cữu
Khâu, Ngũ Kinh, Tứ Thư, và các kinh luận của Lăo Tữ, Khổng Tử, Trang Tử,
Mạnh Tử, Liệt Tử, Bách Gia Chư Tử v.v. ... tất cả đều bị
thu gom tiêu hủy, chỉ c̣n sót lại có Kinh Dịch (v́ bị xem là sách bói), nhờ vào đó
mà các đoạn sử liệu của thời Phục Hy, Thần Nông, sau nầy mới
có tài liệu truy cứu .
Năm 208tCN, Tần Thủy Hoàng bị bạo bệnh chết trên đường
đi kinh lư, trị v́ lănh địa mới thống nhất được 13 năm. Sau ngày
Tần Thủy Hoàng mất, nhiều bộ tộc nổi lên tranh chiếm lại phần
lănh địa củ đă mất, đồng thời quan quân nhà Tần không tùng
phục Tần Nhị Thế (người kế vị), Triệu Đà tướng
nhà Tần tự xưng Vương thành lập nước Nam Việt. Thừa tướng
nhà Tần Lư Tư, bị Triệu Cao hài tội giết chết, v́ vậy sự việc
"thống nhất chữ viết" chưa hoàn thành .
Năm 206tCN,Lưu Bang Hán Cao Tổ thay nhà Tần, lập nên nhà Hán. Nhà
Hán tiếp tục bài Nho với mục đích thống nhất chữ viết cho nước
Tàu. Năm 111tCN Hán Vũ Đế thôn tính Nam Việt của Triệu Đà (gồm
cả Việt Nam), kể từ thời nầy trở đi Khổng Nho được
phục vị, tầng lớp tri thức Nho giáo mới san định lại kinh sách,
người đời sau phân biệt Nho học trải qua nhiều khúc quanh với tên
gọi, Cổ Nho, Khổng Nho, Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho, ... Những đột
biến văn hóa nầy đều có khảo luận ở các chương sau, tại đây
chỉ nhấn mạnh " biện pháp thống nhất chữ viết của Tần
Hán " đă gây thăm họa xương máu cho toàn các bộ lạc có chữ viết
và kinh điển riêng !!!
Mỗi bộ tộc Bách Việt chữ gọi là Bang, là Xứ có đến
hàng trăm vẫn được nói theo tiếng của ḿnh, nhưng chữ viết, học
hành, giao tiếp nhất nhất đều phải thống nhất theo kinh sách chữ
Hán vừa mới soạn xong, do quan lại nhà Hán truyền dạy. Ai vi phạm không tự
xóa bỏ chữ viết và kinh sách địa phương đều phải tội chém đến
cả ba họ (tru di tam tộc) .
Việt Nam thời khuyết sử tuy thoát khỏi quốc nạn chôn Nho, đốt
sách, đày ải sĩ phu của Tần Thủy Hoàng, nhưng vẫn không thoát khỏi được
mưu đồ xóa bỏ văn hóa Việt của nhà Hán, măi đến khi nhà Đinh
(968sCN) thu phục lại tự chủ th́ sĩ phu Việt mới hồi phục lại chữ
Nôm là ngôn ngữ gốc của tộc Việt (nôm là biến âm từ chữ
Nam) .
Nhà Tần đă tiêu hủy hết 80% kinh sách về cổ sử, huyền sử,
lịch sử của tộc Việt, 20% c̣n lại, bị nhà Hán tiếp tục đốt
sạch. Riêng Lạc Việt (Việt Nam ngày nay) bi Hán thuộc từ 111tCN đến khi nhà
Đinh 968sCN dành được độc lập, thời gian trải qua hơn 1000 năm
nô lệ, dù có cất dấu thật kỷ, sử liệu cổ cũng tan thành đất.
Thật tế vào thời nầy chỉ c̣n sót lại văn ngôn truyền miệng sao cho dể
nhớ và khó quên, nên văn chương truyền khẩu phải ngắn gọn và thần
kỳ hóa, biểu hiện được cái chân của tộc Việt, cái tinh anh của văn
hóa Việt th́ mới đạt .
Quan lại phong kiến qua các thời Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên,
Minh, Thanh, đặt trọng tâm vào cái ghế của ḿnh, bảo toàn tiền đồ của
gia đ́nh ḿnh. C̣n sĩ phu dân dă th́ chủ tâm vào cái đầu của ḿnh với sự an nguy
của gia tộc. Cho nên, công việc biên soạn cổ sử, huyền sử, lịch sử
vào thời đó phải san định như thế nào để được triều
đại đương thời chuẩn y và khen tặng .
Văn ngôn truyền miệng của tộc Việt trải qua hơn ngàn năm
Hán thuộc tất phải thận trọng bằng lời lẽ ẩn dụ qua thần
thoại và cổ tích, phận hậu sinh kế thừa văn hóa của cha ông phải biết
giăi mă, giăi lư truyền thuyết, sao cho thoát ra được cái tinh túy tiềm tàng
bên trong các huyền thoại từ Việt cổ là đă biết sống lại cùng Cội
Nguồn tộc hệ ḿnh vậy .
Theo Hoài Việt trong "Ngược ḍng Lịch Sử" có thuật lại câu chuyện
biết nhận nguồn con người Bách Việt như sau:
Vào cuối thập niên của thế kỷ 20, ở Hà Nội, phố
Hàng Buồm, có người khách trú làm nghề bắt mạch kê đơn hốt thuốc
cho tiệm Nhân Ḥa Đường. Người tự thuật câu chuyện nầy có gặp ông ở đền
Ngọc Sơn, được ông mời về nhà. Sau tuần trà hàn huyên, ông mời
uống rượu gọi là tẩy trần (rủ bụi đường) ... rượu đă
ngà ngà, chuyện đă van văn, tôi hỏi ông:
- Nếu bây giờ, có ai hỏi ông là người nước nào ? gốc ở đâu
? th́ ông trả lời thế nào ?
- Tôi là người Trung Hoa (vào thời nầy nước Tàu là Trung Hoa Dân
Quốc) quê ở tỉnh Phúc Kiến.
-Nếu một người ở Hán Trung hỏi ông là người
ǵ? gốc nào? th́ ông trả lời thế nào?
- Tôi ở Phúc Kiến, gốc Việt.
- Nếu lùi lại vào thời Câu Tiển, có ai hỏi ông là người ǵ?
gốc nào? th́ ông trả lời ra sao?
- Khó ǵ ! ... Tôi là người Việt, gốc Việt !
Tôi rót một chén rượu, bưng hai tay mời ông và nói: " Xin Ông
nhận cho chén rượu nầy để bày tỏ ḷng kính trọng của tôi đối
với một người không quên gốc Tổ" .
Tổ Nghiệp tôn thừa, Tổ Tổ Tôn Tôn thừa
nghiệp Tổ
Cha truyền con nối, Cha Cha Con Con nối đạo nhà
Hết Chương I
Chương II : Tổ Tiên
|